Xin đừng cứng lòng nữa - Đấng phải đến
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Nguyễn Văn Nghĩa
XIN ĐỪNG CỨNG LÒNG NỮA
(Thứ Ba sau Chúa Nhật III Mùa Vọng – Mt 21,28-32)
Sau khi kể câu chuyện dụ ngôn về hai người con, Chúa Giêsu đã hỏi thính giả hôm ấy, chủ yếu là Thượng Tế và Kỳ lão rằng ai trong hai người con đã làm đẹp lòng cha mình. Dĩ nhiên họ dễ dàng trả lời đó là người con thứ nhất dù trước đó không nghe lời cha nhưng sau lại hối hận mà đi làm theo ý cha mình. Còn người con thứ hai thì miệng môi nói lời vâng vâng, dạ dạ, nhưng lại không thực hiện ý của cha thì cũng bằng không và thật đáng trách (x.Mt 21,28-31).
Chúa Giêsu kể câu chuyện dụ ngôn này là vì thái độ cố chấp trước chân lý của nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, Người đã làm việc thanh tẩy Đền thờ. “Người xua đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô đổ ghế của những người bán chim câu. Rồi Người bảo họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Mt 21,12-13).
Khi các Thượng tế và kỳ lão cật vấn Chúa Giêsu lấy quyền gì mà làm những việc đó, Người đưa ra cho họ một câu hỏi nếu họ trả lời được thì Người sẽ cho họ biết Người lấy quyền gì mà thanh tẩy Đền thờ. Câu hỏi ấy như sau: “Phép rửa của Gioan là bởi Trời hay bởi người ta?” Tin Mừng tường thuật rõ thái độ cứng lòng của số lãnh đạo cao cấp này. Câu trả lời: “Chúng tôi không biết” của họ khởi đi từ sự tính toán cân nhắc thiệt hơn. Một sự cố tình cứng lòng trước chân lý quả thật đáng quy trách nhiệm. Và Chúa Giêsu đã khẳng định rõ điều này: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Nhiều chuyên gia Kinh Thánh cho chúng ta biết hạn từ “trước” trong câu khẳng định của Chúa Giêsu có nghĩa là thay thế.
Dù tội lỗi công khai như nhiều người bán thân nuôi miệng hoặc nhiều người thu thuế làm tay sai cho đế quốc, chèn ép dân chúng bằng sưu cao thuế nặng, nhưng họ đã mở lòng ra trước chân lý qua lời rao giảng của Gioan để rồi thay đổi thì họ sẽ vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của nhiều người xem ra đức cao, vị trọng mà cứng lòng. “Mọi thứ tội đều có thể được tha ngoại trừ tội phạm đến Thánh Thần” là sự cố tình cứng lòng trước chân lý (x.Mt 12,32). Có đó nhiều hình thức và nguyên nhân của sự cứng lòng trước chân lý, tuy nhiên cần lưu ý một vài hình thức cứng lòng nhiều khi chúng ta dễ bỏ qua như sau:
-Không chân thành nhìn nhận điều đúng, lẽ phải khi chúng khởi đi từ những người thuộc quyền, thấp cổ, bé phận, những người khác chính kiến thậm chí khác “chiến tuyến” của chúng ta. Sợ rằng mình sẽ bị hạ phẩm giá, mất uy thế, chúng ta có thể phớt lờ trước lời chân lý của những hạng người này. Thậm chí rất có thể dùng uy quyền hay đủ cách thế để xuyên tạc như trường hợp nhiều người Pharisêu đã xuyên tạc rằng Chúa Giêsu dựa thế quỷ vương Bêendêbút mà trừ quỷ (x.Mc 3,22-30).
-Thiếu khiêm nhu nhìn nhận điều sai, việc lỗi của bản thân mình. Dù rằng bản thân cũng nhận biết mình thiếu sót, lỗi lầm và cả sai trái nhưng vẫn quanh co lấp liếm. Trong trường hợp này người ta thường dùng vai vị, uy quyền của mình để “cả vú lấp miệng em”, lôi kéo số đông dân chúng vốn “đơn sơ chất phác” về phía mình.
Thỉnh thoảng cũng nên chân thành tự chất vấn rằng những ai sẽ vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của tôi? Hôm nay, nếu các người nghe tiếng Người (Lời Chân Lý), đừng cứng lòng nữa!
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
***************
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
(Thứ Tư sau Chúa Nhật III Mùa Vọng – Lc 7,19-23)
Câu chuyện thánh Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác” (Lc 7,20) đã khiến nhiều người mộ mến thánh nhân thấy “khó chấp nhận” nên tìm cách giải thích theo hướng tích cực, với ý ngay lành. Họ không thể nào nhìn nhận việc một đại ngôn sứ như Gioan vốn đã từng giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian cho dân chúng mà nay lại nghi ngờ (x.Ga 1,29). Vì thế họ cho rằng khi sai hai môn đệ đi hỏi Chúa Giêsu là Gioan có ý qua đó để củng cố đức tin cho các môn đệ. Đây là một lối giải thích xem ra hữu tình theo cái nhìn tu đức, tuy nhiên dường như nó không hữu lý trong bối cảnh mà Tin Mừng tường thuật và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Lc 7,22-23).
Trước đó, một lần khi vào Hội đường người ta trao cho Chúa Giêsu Sách Thánh và Người đã mở ra gặp ngay đoạn Sách ngôn sứ Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Sau khi đọc sách thì Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (x.Lc 4,16-22). Chúng ta phải ngạc nhiên vì sao khi trả lời cho các môn đệ Gioan thì Chúa Giêsu lại bỏ qua các chi tiết “giải thoát kẻ bị giam cầm, trả tự do cho người bị áp bức”.
Đây có thể là nguyên nhân khiến Gioan Tẩy Giả cách nào đó bị thử thách đức tin. Can đảm vạch trần sự sa đọa, loạn luân của vua Hêrôđê, thánh nhân đã bị giam cầm cách bất công. Trong ngục tối lâu ngày, lòng ngài hẳn khát mong Đấng Thiên Sai sẽ làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia giải thoát mình khỏi cảnh cùm gông, ngục tù. Thế mà sao Người vẫn chưa ra tay, hay là Người chưa hẳn là Đấng phải đến? Hành trình đức tin luôn có đó nhiều khoảng tăm tối. Phận lữ hành là thế. Ngay cả Con Thiên Chúa làm người phút giây hấp hối trên thập giá cũng đã từng trải qua: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).
Đường lối của Thiên Chúa nào ai suy thấu. Đến thế gian này, sứ mạng của Đức Kitô là giải thoát nhân loại ra khỏi cùm gông, ngục tù của thần dữ. Tin rằng rồi có lúc thánh Gioan Tẩy Giả sẽ hiểu dù mình thân ở trong ngục nhưng vẫn thực sự tự do vì đã can đảm sống và công bố sự thật. Sự thật đã giải thoát ông (x.Ga 8,32). Chính Hêrôđê mới là người cần được giải thoát khỏi gông cùm nô lệ, vì ông đang là tù nhân của sự trụy lạc và gian ác.
Chúng ta thích Đấng Thiên Sai đến thực hiện công trình cứu độ theo cách thế của mình. Thế nhưng đã là Đấng Thiên Sai thì phải thực thi sứ vụ theo cách của Đấng sai Người. Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần xao xuyến và đổ mồ hôi pha lẫn máu trong vườn dầu để có thể thân thưa với Cha trên trời: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cất khỏi con chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” (x. Lc 22,41-44).
Khi nói với các môn đệ mà Gioan sai đến: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” chắc hẳn Chúa Giêsu hiểu rằng sẽ có đó nhiều người vấp ngã vì cách thế cứu độ mà Người chọn theo ý Cha trên trời. Người hiểu vì đó là phận phàm hèn và Người không bao giờ bỏ rơi họ. Chúng ta tin rằng có lẽ chỉ mình Mẹ Maria mới được cái phúc này với thế dáng đứng thẳng dưới chân thập giá (x.Ga 19,25-27). Cả tập thể nhóm Mười Hai đều đã vấp ngã như lời Chúa Giêsu tiên báo trong đêm Tiệc Ly: “Đêm nay, tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,31). Tuy nhiên Người đã luôn hiện diện bên họ để yêu thương, che chở và giúp họ trỗi dậy.
Đêm tối đức tin là lẽ thường tình của kiếp nhân sinh. Nhận ra hiện thực này mong sao chúng ta biết đồng cảm với nhau hơn trong mọi trạng huống cuộc đời, nhất là nhưng khi vấp ngã. Chúa Kitô mãi hiện diện và đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). “Ơn của Người luôn đủ cho chúng ta” (x.2Cr 12,9). Hãy biết giúp nhau thêm xác tín rằng chúng ta không bao giờ lẽ loi, đơn côi một mình để rồi lại chỗi dậy sau những lần vấp ngã, “quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước”(x.Pl 3,13).
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột