Nhảy đến nội dung

Xuân Tiết

Xuân Tiết

Tết Nguyên Đán là lễ hội quan trọng nhất và mang tính thiêng liêng nhất của người Việt – những người mang dòng máu đỏ, da vàng, dù là Bắc, Trung, Nam.

Theo chiết tự: Tết được đọc trại từ chữ “tiết” (節), Nguyên Đán (元 旦) gồm hai từ: Nguyên là “khởi đầu” hoặc “sơ khai”, Đán là “buổi sáng sớm”. Tiết Nguyên Đán được “rút gọn” và biến âm Tiết thành Tết, người Trung Hoa gọi là “Xuân Tiết” (春 節) hoặc “Nông lịch Tân niên” (農 曆 新 年). Xuân Tiết vẫn là Tết cổ truyền của Trung Hoa, mặc dù từ năm 1949, họ đã chính thức chuyển qua dùng dương lịch và cũng mừng đón Tết dương lịch.

Cụ Nguyễn Công Trứ đã bảo thế này:

Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi

Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng

 

Nghe chừng cảm thấy “sốc” lắm, nhưng “sự đời” là thế đấy! Đời thế thì mình cũng hòa đồng cho vui vẻ mấy ngày Tết. Mình không thể khác được vì mọi người và vạn vật đều vui Tết mừng Xuân mà!

Già trẻ gái trai đều khoái Tết

Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân

 

Tết Nguyên Đán ảnh hưởng văn hóa Tết âm lịch của Trung Hoa, nhưng đã được Việt hóa để thành “cái riêng” của người Việt. Do cách tính âm lịch của Việt Nam có chút khác với âm lịch của Trung Hoa nên Tết Nguyên Đán của người Việt đôi khi không trùng với “Xuân Tiết” của người Trung Hoa và các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Hán ngữ khác, có thể chênh lệch một ngày.

Tết Nguyên Đán được tính theo âm lịch, theo chu kỳ vận hành của mặt trăng. Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (thường gọi là Tết Tây), do quy luật là cứ 3 năm thì nhuận một tháng của năm âm lịch nên ngày đầu năm âm lịch không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 dương lịch, mà thường rơi vào khoảng cuối tháng Một đến giữa tháng Hai dương lịch. Tết Nguyên Đán thường kéo dài khoảng 7 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới – tức là từ 23 tháng Chạp đến hết mồng 7 tháng Giêng.

Hằng năm, trước Tết thường có những ngày chuẩn bị như Tết Táo Quân (23 tháng Chạp âm lịch) và Tất Niên (29 hoặc 30 tháng Chạp âm lịch). Theo quan niệm của người Việt, ông Táo vừa là Thần Bếp trong nhà vừa là “người ghi chép” mọi việc làm tốt hoặc xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch. Lễ cúng gồm có nhang (hương), nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ của đàn ông và một mũ của đàn bà, kèm theo ba con cá chép (cá thật hoặc cá giấy). Theo truyền thuyết, cá chép đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên Đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, còn dân phố thị không còn giữ phong tục này. Theo phong tục, cây nêu được dựng lên để chống ác thần và điềm gở. Cây nêu thường được treo thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa.

Trước ngày Tết, người Việt cũng chuẩn bị bánh chưng, bánh dầy và các món ăn thịnh soạn để dâng lên ông bà tổ tiên. Theo phong tục tập quán, các gia đình sum họp bên nhau trong những ngày Tết, ai đi xa cũng cố gắng trở về với người thân, nhất là đối với những người còn ông bà và cha mẹ, để cùng thăm hỏi nhau, mừng tuổi hoặc chúc tết nhau và cùng thờ cúng tổ tiên.

Văn hóa Á Đông thuộc “văn minh nông nghiệp lúa nước”, do nhu cầu canh tác nông nghiệp nên người ta đã “phân chia” thời gian của một năm thành 24 tiết khác nhau, ứng với mỗi tiết này đều có một thời khắc “giao thừa”. Trong đó, tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán, và được biết đến là Tết Nguyên Đán.

Theo lịch sử Trung Hoa, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế, và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Đại, dịp Tết trong tháng đầu năm có khác nhau. Nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng (tháng Dần), nhà Thương thích màu trắng nên chọn tháng Chạp (tháng Sửu), còn nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Mười Một (tháng Tý). Các vua này quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” thế này: Giờ Tý có trời, giờ Sửu có đất, giờ Dần sinh loài người, thế nên họ đặt ra ngày Tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (tháng Mười). Đời nhà Hán, Hán Vũ Đế (năm 140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Giêng (tháng Dần). Từ đó, không còn vua nào thay đổi tháng Tết nữa, và Tết Nguyên Đán được giữ tới nay.

Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh (Trung Hoa) làm chuẩn cho cách tính âm lịch. Ngày 8-8-1967, chính phủ miền Bắc quyết định đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn. Vì thế hai miền Nam và Bắc của Việt Nam đón Tết Mậu Thân vào hai ngày khác nhau: Miền Bắc đón Tết vào ngày 29 tháng 1 dương lịch, còn miền nam đón Tết vào ngày 30 tháng 1 dương lịch). Sau năm 1975, hai miền Nam Bắc bắt đầu dùng chung múi giờ GMT+7 như chúng ta thấy ngày nay.

Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong giây phút thiêng liêng này, mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Trước đây, người ta thường đốt pháo nổ vang rền, gọi là để “trừ tịch”, trừ ma quỷ và tà thần. Ngày nay, không còn pháo nổ, người ta thường bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát. Cúng Giao thừa còn gọi là Lễ Trừ Tịch, tức là lễ cúng để trút bỏ mọi điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới.

Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (12 vị Hành Khiển). Lúc đó, họ đi thị sát hạ giới, họ rất vội nên không kịp vào trong nhà được, do đó mà bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành Khiển cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành Khiển mới xuống trần gian cai quản hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành Khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị đó được chỉ định như sau:

Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, Lý Tào Phán quan.

Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam thập lục phương Hành Binh chi Thần, Khúc Tào Phán quan.

Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển, Mộc Tinh chi Thần, Tiêu Tào Phán quan.

Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển, Thạch Tinh chi Thần, Liêu Tào Phán quan.

Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh chi Thần, Biểu Tào Phán quan.

Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan.

Năm Ngọ: Tấn Vương Hành Khiển, Thiên Hao chi Thần, Nhân Tào Phán quan.

Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển, Ngũ Đạo chi Thần, Lâm Tào Phán quan.

Năm Thân: Tề Vương Hành Khiển, Ngũ Miếu chi Thần, Tống Tào Phán quan.

Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển, Ngũ Nhạc chi Thần, Cự Tào Phán quan.

Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển, Thiên Bá chi Thần, Thành Tào Phán quan.

Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển, Ngũ Ôn chi Thần, Nguyễn Tào Phán quan.

 

Mâm cỗ cúng giao thừa được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa Người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ trở lại Thiên Đình, và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao và tiếp quản công việc phải khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc lấy đem theo, thậm chí họ chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà rồi vội vã đi ngay. Trên hương án thường có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc nến.

Lễ vật gồm thủ lợn (đầu heo) hoặc con gà, bánh chưng, mứt, kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã. Các vị Hành Khiển nhìn lễ vật sẽ biết ý gia chủ có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót,… hay không. Nếu thấy gia chủ có “ý đồ”, họ lập tức dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật của gia chủ đó. Trái lại, các gia chủ chân chất, thật thà, sống bằng lao động chân chính, ăn ở tử tế, chỉ có chén rượu và nén nhang, họ biết ngay và vui vẻ thưởng thức, quan tâm phù hộ cho gia chủ nghèo đó.

Đó là cúng giao thừa lộ thiên (ngoài trời). Người ta cũng cúng giao thừa trong nhà. Đó là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa, nhằm cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình gặp những điều tốt lành trong năm mới. Mâm lễ gồm các món ăn mặn hoặc đồ chay. Cỗ mặn gồm: Bánh chưng, giò, chả, xôi, thịt gà, rượu hoặc bia, hoặc các loại thức uống khác. Cỗ ngọt và chay gồm: Nhang, hoa đèn, nến, bánh, kẹo, mứt.

Khi cúng giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ tổ tiên để khấn xin tiền nhân phù hộ độ trì, cầu an khang, thịnh vượng, và sức khỏe. Trước khi khấn tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu, người ta khấn Thổ Công (vị thần cai quản trong nhà) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết với gia đình.

Mồng Một tháng Giêng là ngày đầu tiên của năm mới, ngày quan trọng nhất trong dịp Xuân về, Tết đến. Người Việt xưa thường không ra khỏi nhà vào ngày mồng Một, chỉ ở nhà bày cỗ cúng tân niên, cùng ăn tiệc và chúc tụng nhau trong gia đình thôi. Đối với những người đã lập gia đình, không sống chung nhà với cha mẹ, và nếu cha mẹ còn sống, họ đến chúc Tết cha mẹ, theo tục lệ “mồng Một tết Cha”.

Mồng Hai tháng Giêng là ngày cũng có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, nguời ta đi chúc tết họ hàng thân thuộc, theo tục lệ “mồng Hai tết Chú”. Mồng Ba tháng Giêng là ngày theo tục lệ “mồng Ba tết Thầy”. Sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết các thầy cô đã từng dạy mình học hành.

Người ta còn có tục lệ “xông đất” (đạp đất, mở hàng), hoặc “xông nhà”. Người ta quan niệm ngày Mồng Một là ngày “khai trương” năm mới. Vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ thì gia đình may mắn cả năm, được sự tốt lành và thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ ai bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới thì được coi là người xông đất cho gia chủ. Vì thế, người khách đầu tiên đến thăm nhà là điều quan trọng. Do đó, người ta cố tìm người trong bà con hay láng giềng có tính khí vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ “xông nhà”. Người đến xông nhà thường chỉ đến thăm hỏi và chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lâu, cốt là mong mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy, hanh thông.

Việc xông đất hoặc xông nhà cũng phải lưu ý tuổi tác hạp hoặc kỵ. Có “quy luật” thế này: Tuổi Giáp hạp với Kỷ, kỵ với Canh và Mậu; tuổi Ất hạp với Canh, kỵ với Tân và Kỷ; tuổi Bính hạp với Tân, kỵ với Nhâm và Canh; tuổi Đinh hạp với Nhâm, kỵ với Quý và Tân; tuổi Mậu hạp với Quý, kỵ với Giáp và Nhâm; tuổi Kỷ hạp với Giáp, kỵ với Ất và Quý; tuổi Canh hạp với Ất, kỵ với Bính và Giáp; tuổi Tân hạp với Bính, kỵ với Đinh và Ất; tuổi Nhâm hạp với Đinh, kỵ với Mậu và Bính; tuổi Quý hạp với Mậu, kỵ với Kỷ và Đinh.

Xông đất xong, người ta thấy vui vì đã làm được điều phúc đức. Họ sung sướng vì tin rằng gia đạo mình cũng sẽ may mắn trong suốt năm tới. Ngày xưa, chỉ có hai cách chọn “người tốt vía” đến xông nhà vào ngày đầu năm: Một là chọn người làm quan, người có học thức, hoặc chọn người hạp tuổi với gia chủ. Ngày nay, khi xã hội văn minh và phát triển, kiến thức khoa học tăng thêm, người ta không còn tin vào chuyện “hạp tuổi” nữa, có nói thì chỉ là nói cho vui thôi. Hạp hay không hạp, tốt hay xấu, tất cả là tùy vào cách sống của mình. Đó mới là điều quan trọng cần lưu ý mà cố gắng quyết tâm mỗi dịp Tết Nguyên Đán.

TRẦM THIÊN THU

Tác giả: