03 Phần 03
IV. BÀ EVA – BÀ MARIA
“Khởi nguyên” và tội lỗi
9. “Con người đã được Thiên Chúa dựng nên trong tình trạng công chính, tuy nhiên, ngay từ buổi đầu lịch sử, bị nghe theo Thần Dữ, con người đã lạm dụng tự do của mình khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa” [28]. Với những lời ấy, giáo huấn của Công đồng mới đây nhắc lại giáo thuyết mạc khải về tội lỗi và đặc biệt về tội đầu tiên ấy, vốn là “nguyên tội”. “Khởi nguyên” theo Kinh Thánh –việc tạo dựng thế giới và con người trong thế giới– chứa trong nó chân lý về tội này, vốn cũng có thể gọi là tội của “khởi nguyên” con người trên mặt đất. Cho dẫu những gì viết trong sách Sáng Thế được diễn tả dưới hình thức một câu chuyện biểu tượng, như trường hợp mô tả việc tạo dựng con người có nam có nữ (x. St 2,18-25), nó cũng đồng thời cho thấy cái nên được gọi là “mầu nhiệm tội lỗi”, thậm chí đầy đủ hơn là “mầu nhiệm sự dữ” vốn hiện hữu trong thế giới do Thiên Chúa tạo dựng.
Không thể đọc “mầu nhiệm tội lỗi” mà không nhắc đến toàn bộ chân lý về “hình ảnh và giống” Thiên Chúa vốn là nền tảng của nhân học Thánh Kinh. Chân lý này trình bày việc tạo dựng con người như một hồng ân đặc biệt từ Đấng Sáng Tạo, chứa đựng không những nền tảng và nguồn gốc phẩm giá chủ yếu của con người -nam và nữ- trong vũ trụ thụ tạo, nhưng cũng chứa khởi nguyên lời kêu gọi cả hai chia sẻ sự sống thâm sâu của chính Thiên Chúa. Trong ánh sáng Mạc khải, cuộc sáng tạo cũng báo hiệu khởi nguyên của lịch sử cứu độ. Chính ngay ở khởi nguyên này mà tội lỗi nằm vào và tự biểu lộ như đối kháng lẫn phủ nhận.
Có thể nói một cách nghịch lý rằng tội lỗi được trình bày trong Sáng Thế chương 3 xác nhận chân lý về hình ảnh và giống Thiên Chúa nơi con người, vì chân lý ấy nói lên sự tự do, nghĩa là việc con người sử dụng ý chí tự do khi chọn điều lành hay lạm dụng ý chí tự do khi chọn điều dữ, nghịch lại ý muốn Thiên Chúa. Nhưng trong yếu tính của nó, tội lỗi là một sự phủ nhận Thiên Chúa như Tạo Hóa trong tương quan của Người với phàm nhân, và phủ nhận điều Thiên Chúa muốn cho con người ngay từ khởi nguyên và mãi mãi. Tạo dựng nam và nữ theo hình ảnh và giống mình, Thiên Chúa muốn cho họ được thiện hảo tràn đầy, hay hạnh phúc siêu nhiên, vốn tuôn chảy từ việc chia sẻ sự sống của Người. Bằng việc phạm tội, con người chối từ hồng ân ấy và đồng thời muốn trở thành “như thần minh, biết điều thiện điều ác” (St 3,5), nghĩa là định đoạt cái gì là tốt và cái gì là xấu cách độc lập với Thiên Chúa, Tạo Hóa của mình. Tội của những cha mẹ đầu tiên có “chiều kích” con người của nó: một tiêu chuẩn nội tại riêng nằm trong ý chí tự do của con người, và nó cũng mang bên trong mình một đặc tính “xảo quyệt” nào đó [29] vốn được bày tỏ rõ ràng trong sách Sáng Thế (3,1-5). Tội lỗi dẫn đến việc gãy đổ sự hợp nhất nguyên thủy mà con người đã hưởng trong tình trạng công chính nguyên thủy: việc kết hợp với Thiên Chúa như nguồn gốc sự hợp nhất bên trong “cái tôi” của mình, mà con người đã hưởng trong quan hệ hỗ tương giữa nam và nữ (“communio personarum” hiệp thông các ngôi vị) cũng như đối với thế giới bên ngoài, với thiên nhiên.
Mô tả của Thánh Kinh về nguyên tội trong Sáng Thế chương 3 một cách nào đấy đã “phân biệt các vai trò” mà người nữ và người nam có trong đó. Điều này cũng được nhắc đến về sau trong vài đoạn Thánh Kinh, ví dụ Thư thánh Phaolô gửi ông Timôthê: “Vì Ađam được tạo dựng trước, rồi mới đến Evà. Cũng không phải Ađam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ” (1 Tm 2,13-14). Nhưng chắc chắn rằng, mặc cho sự “phân biệt vai trò” ấy trong mô tả của Thánh Kinh, tội đầu tiên ấy là tội của con người đã được Thiên Chúa tạo dựng có nam có nữ. Đấy cũng là tội của “nguyên tổ”, mà gắn vào đó là tính di truyền của nó. Theo nghĩa này, chúng ta gọi đó là “nguyên tội”.
Như đã nói, tội này không thể được hiếu đúng đắn nếu không quy chiếu về mầu nhiệm tạo dựng con người -nam và nữ- theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Nhờ việc quy chiếu này, người ta cũng có thể hiểu mầu nhiệm sự “không giống” Thiên Chúa ấy mà tội hệ tại, sự không giống vốn tự biểu lộ nơi sự dữ hiện diện trong lịch sử thế trần, và cũng vậy, sự “không giống” Thiên Chúa, Đấng “duy nhất tốt lành” (x. Mt 19,17) và là sự tốt lành trọn hảo. Nếu việc tội lỗi “không giống” Thiên Chúa, Đấng là chính sự Thánh thiện, giả thiết sự “giống” trong lãnh vực của tự do và của ý chí tự do, thì vì lý do đó có thể nói rằng sự “không giống” chứa đựng trong tội lại càng bi đát và buồn thảm hơn. Phải chấp nhận rằng Thiên Chúa, xét như Tạo Hóa và Hiền Phụ, bị tổn thương, bị “xúc phạm” -xúc phạm rõ ràng- nơi đây, trong chính trung tâm của hồng ân vốn thuộc kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa cho con người.
Nhưng cùng lúc, vì là tác giả gây nên sự dữ của tội lỗi, con người –nam và nữ– cũng bị nó ảnh hưởng. Sáng Thế chương 3 cho thấy điều này với những từ ngữ rõ ràng mô tả hoàn cảnh mới của con người trong thế giới thụ tạo. Nó cho thấy viễn ảnh “vất vả cực nhọc” mà đàn ông sẽ phải chịu để sinh nhai (x. St 3,17-19) và tương tự vậy, cơn “đau đớn lớn lao” mà đàn bà sẽ phải gánh khi sinh nở (x. St 3,16). Và tất cả điều này được đánh dấu bằng cái chết tất yếu, sự chấm dứt đời người trên mặt đất. Theo cách ấy, con người, xét như bụi đất, sẽ “trở về với đất, vì từ đất, nó đã được lấy ra”: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với đất bụi” (x. St 3,19).
Các lời ấy được xác nhận từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng không muốn nói rằng hình ảnh và sự giống Thiên Chúa nơi con người, dù nam hay nữ, đã và đang bị tội lỗi phá hủy; nhưng đúng hơn là đã và đang “bị che khuất” [30] và trong một ý nghĩa nào đó “bị giảm thiểu”. Trong thực tế, tội lỗi làm “suy giảm” con người, như Công đồng Vaticanô II cũng nhắc lại [31]. Nếu con người là hình ảnh và giống Thiên Chúa do chính bản tính của mình xét như một ngôi vị, thì sự vĩ đại và phẩm giá của nó được hoàn tất trong giao ước với Thiên Chúa, trong sự kết hợp với Người, trong nỗ lực tiến đến sự hợp nhất cơ bản vốn thuộc về “lô-gích” nội tại của chính mầu nhiệm sáng tạo. Sự hợp nhất này tương ứng với chân lý sâu xa liên quan đến mọi tạo vật thông minh, và đặc biệt đến con người, mà ngay giữa mọi tạo vật của thế giới hữu hình, đã được nâng lên từ đầu nhờ việc tuyển chọn vĩnh cửu của Thiên Chúa trong Đức Giê-su: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ… Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-6). Giáo huấn Kinh Thánh, xét như một toàn bộ, cho chúng ta nói được rằng sự tiền định ấy liên can đến mọi con người, nam và nữ, và đến mỗi một người chẳng trừ ai.
“Nó sẽ thống trị ngươi”
10. Mô tả của Thánh Kinh trong sách Sáng Thế phác thảo sự thật về các hậu quả của tội lỗi con người, như được thấy qua sự rối loạn tương quan nguyên thủy giữa đàn ông và đàn bà, tương quan tương ứng với phẩm giá riêng của họ như các ngôi vị. Một con người, dù nam hay nữ, là một ngôi vị, và vì thế là “tạo vật duy nhất trên mặt đất được Thiên Chúa tạo dựng vì chính nó”; và đồng thời tạo vật độc nhất lẫn độc đáo đó “chỉ có thể gặp lại bản thân khi chân thành trao ban chính mình” [32]. Ở đây bắt đầu mối liên hệ “hiệp thông” trong đó sự “hợp nhất của cả hai” và phẩm giá riêng của đàn ông lẫn đàn bà được biểu lộ. Vì thế, khi chúng ta đọc thấy trong mô tả của Thánh Kinh những lời ngỏ với người phụ nữ: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16), chúng ta khám phá ra một sự đổ vỡ và một hăm dọa thường xuyên liên can đến sự “hợp nhất của cả hai” vốn tương ứng với phẩm giá của hình ảnh và sự giống Thiên Chúa trong cả hai người. Nhưng sự hăm dọa đó còn nghiêm trọng hơn đối với phụ nữ, vì sự thống trị chiếm chỗ của việc “làm một quà tặng chân thành” và do đó là sống “cho” kẻ khác: “Nó sẽ thống trị ngươi”. Việc “thống trị” này cho thấy sự rối loạn và đánh mất tính ổn định của sự bình đẳng cơ bản mà người nam và người nữ có trong sự “hợp nhất của cả hai”: và điều này đặc biệt gây bất lợi cho người nữ, đang khi chỉ sự bình đẳng phát xuất từ phẩm giá của họ như các ngôi vị mới có thể ban cho mối quan hệ hỗ tương của họ đặc tính của một “communio personarum” (hiệp thông ngôi vị) đích thực. Đang khi việc vi phạm sự bình đẳng ấy, vốn là một quà tặng đồng thời là một quyền lợi phát xuất từ Thiên Chúa Tạo Hóa, kéo theo một yếu tố gây bất lợi cho người nữ, thì cùng lúc nó cũng giảm thiểu phẩm giá đích thực của người nam. Ở đây chúng ta đụng đến một điểm hết sức nhạy cảm trong chiều kích của “ethos–luân lý” mà ngay từ đầu đã được Tạo Hóa ghi khắc trong chính việc tạo dựng cả hai theo hình ảnh và giống Người.
Tuyên bố này trong Sáng Thế 3,16 có một ý nghĩa lớn lao. Nó bao hàm một sự quy chiếu đến mối quan hệ hỗ tương giữa nam và nữ trong hôn nhân. Nó nhắc đến nỗi khao khát phát sinh trong bầu khí tình yêu phu phụ nhờ đó sự “hiến thân chân thành” của người nữ được đáp trả tương xứng bằng một sự “hiến dâng” phù hợp từ phía người chồng. Chỉ dựa trên nguyên tắc này mà cả hai, và đặc biệt là người nữ, mới có thể “khám phá chính mình” như một “sự hợp nhất đích thực của cả hai”, phù hợp với phẩm giá của ngôi vị. Sự kết hợp hôn nhân đòi hỏi việc tôn trọng và hoàn thành nhân cách đích thực của cả hai. Đàn bà không thể trở thành “đối tượng” cho sự “thống trị” và “chiếm hữu” của đàn ông. Nhưng các lời của bản văn Thánh Kinh liên quan trực tiếp đến nguyên tội và những hậu quả kéo dài của nó trong người nam và người nữ. Bị đè nặng bởi tội di truyền, họ mang trong chính mình “sự nghiêng chiều về tội lỗi”, khuynh hướng đi ngược lại trật tự luân lý vốn tương ứng với bản tính có lý trí và phẩm giá của nam lẫn nữ xét như các ngôi vị. Khuynh hướng ấy được diễn tả trong một dục vọng ba mặt, mà Thánh Gioan xác định như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của (x. 1Ga 2,16). Các lời sách Sáng Thế trích dẫn trên đây (3,16) cho thấy dục vọng ba mặt này, sự “nghiêng chiều về tội lỗi” sẽ đè nặng trên quan hệ hỗ tương giữa nam và nữ ra sao.
Những lời ấy của Sáng Thế trực tiếp quy chiếu về hôn nhân, nhưng cách gián tiếp, chúng liên quan tới các lãnh vực khác của đời sống xã hội: các hoàn cảnh trong đó phụ nữ luôn bị thua thiệt hay bị kỳ thị do là đàn bà. Chân lý mạc khải liên quan đến việc sáng tạo con người có nam có nữ làm nên lập luận chính yếu chống lại các hoàn cảnh gây tổn hại khách quan và các hoàn cảnh bất công vốn chứa đựng và bày tỏ di sản tội lỗi mà mọi con người đều mang lấy trong chính họ. Các Sách Thánh xác nhận ở nhiều chỗ sự hiện hữu đích thực của những hoàn cảnh như thế và cùng lúc công bố việc cần phải hoán cải, nghĩa là phải thanh tẩy khỏi điều dữ và giải thoát khỏi tội lỗi: khỏi những gì xúc phạm đồng loại, những gì “giảm hạ” con người, không những kẻ bị xúc phạm mà cả kẻ gây xúc phạm. Đó là sứ điệp bất biến của Lời do Thiên Chúa mạc khải. Trong nó, “ethos-luân lý” Thánh Kinh được biểu lộ cho đến tận cùng thời gian [33].
Trong thời đại chúng ta, vấn đề “quyền phụ nữ” đã đạt được ý nghĩa mới trong bối cảnh rộng lớn của các quyền con người. Sứ điệp của Thánh Kinh và của Tin Mừng dãi chiếu ánh sáng trên chính nghĩa này, vốn là đối tượng của nhiều chú ý hôm nay, bằng cách bảo toàn chân lý về sự “hợp nhất” của “cả hai”, nghĩa là chân lý về phẩm giá và ơn gọi vốn xuất phát từ đa dạng tính đặc thù và độc đáo tính nhân vị của nam và nữ. Vì thế, ngay cả việc phản đối chính đáng của phụ nữ chống lại những gì diễn tả trong lời Thánh Kinh: “Nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16), cũng không được dẫn đến việc “đàn ông hóa” đàn bà dưới bất cứ hoàn cảnh nào. Nhân danh việc giải phóng khỏi “sự thống trị” của đàn ông, đàn bà chớ nên thủ đắc cho mình những đặc tính nam giới nghịch với “độc đáo tính” nữ giới của mình. Một nỗi lo ngại có cơ sở là nếu họ đi con đường đó, phụ nữ sẽ không thể “đạt tới sự hoàn tất” chính mình, ngược lại sẽ bóp méo và đánh mất cái làm nên sự phong phú chủ yếu của họ. Đó thực là một sự phong phú khổng lồ. Theo mô tả của Thánh Kinh, những lời của người nam đầu tiên khi thấy người nữ vừa được tạo dựng là những lời thán phục và say mê, những lời tràn ngập toàn bộ lịch sử của con người trên trái đất.
Các khả năng cá nhân của nữ tính chắc chắn không kém các khả năng của nam tính, chỉ khác biệt mà thôi. Vì lý do đó, một người nữ, cũng như một người nam, phải hiểu sự “hoàn thành” của mình như một ngôi vị, phải hiểu phẩm giá và ơn gọi của mình dựa trên các khả năng ấy, theo sự phong phú của nữ tính mà mình đã nhận trong ngày sáng tạo và đang thừa hưởng như một biểu thức của “hình ảnh và sự giống Thiên Chúa” vốn thuộc riêng mình. Di sản tội lỗi gợi lên qua lời Thánh Kinh -“Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi”- chỉ có thể thắng vượt bằng cách theo con đường đó. Việc vượt thắng di sản xấu xa ấy, từ thế hệ này sang thế hệ khác, là nhiệm vụ của mỗi người, dù là nữ hay hay nam. Vì hễ khi nào người nam chịu trách nhiệm về việc xúc phạm phẩm giá và ơn gọi riêng của người nữ, thì y đã hành động chống lại phẩm giá và ơn gọi của chính mình.
Tin Mừng Tiên khởi
11. Sách Sáng Thế xác nhận sự kiện tội lỗi là điều dữ ở “khởi nguyên” của loài người và từ đó, các hậu quả của nó đè nặng trên toàn thể nhân loại. Sách đồng thời cũng chứa đựng lời dự báo đầu tiên về chiến thắng trên điều dữ, trên tội lỗi. Điều này được chứng tỏ qua những lời chúng ta đọc trong Sáng Thế 3,15, thường được gọi là “Tin Mừng Tiên khởi”: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Thật ý nghĩa là dự báo về Đấng Cứu chuộc chứa trong những lời ấy có nhắc tới “người phụ nữ”. Bà được gán cho vị trí đầu hết trong Tin Mừng Tiên khởi như tổ mẫu của vị sẽ là Đấng Cứu chuộc loài người [34]. Và vì việc cứu chuộc phải được thành tựu nhờ một cuộc chiến chống lại sự dữ -nhờ “mối thù” giữa miêu duệ người phụ nữ với miêu duệ của kẻ, trong tư cách “cha sự gian dối” (Ga 8,44), là tác giả đầu tiên gây ra tội lỗi trong lịch sử loài người- thì đó cũng là mối thù giữa nó và người phụ nữ.
Các lời ấy cho ta một cái nhìn bao quát về toàn bộ Mạc khải, trước tiên như một sự chuẩn bị cho Tin Mừng và tiếp đến như chính Tin Mừng. Từ viễn tượng đó, hai khuôn mặt đàn bà, Eva và Maria, được liên kết với nhau dưới danh xưng “người phụ nữ”.
Các lời của Tin Mừng Tiên khởi, đọc lại trong ánh sáng của Tân Ước, diễn tả đúng sứ mệnh của người nữ trong cuộc chiến của Đấng Cứu chuộc chống lại tác giả sự dữ trong lịch sử nhân loại.
Việc so sánh Eva-Maria thường xuyên trở đi trở lại trong dòng suy tư về kho tàng đức tin lãnh nhận từ Mạc khải thần linh. Đó là một trong những chủ đề thường được các Giáo phụ, các văn sĩ Giáo hội và các nhà thần học lấy lại [35]. Như một quy luật, từ việc so sánh ấy nổi lên một sự khác biệt, một sự tương phản ngay cái nhìn đầu tiên. Bà Eva, trong tư cách “mẹ của chúng sinh” (St 3,20), là chứng nhân cho “khởi nguyên” theo Thánh Kinh, một khởi nguyên chứa đựng chân lý về việc tạo dựng con người theo hình ảnh và giống Thiên Chúa cũng như chân lý về nguyên tội. Đức Maria là chứng nhân cho “khởi nguyên” mới và “sáng tạo mới” (x. 2Cr 5,17), vì chính Mẹ, xét như kẻ được cứu chuộc đầu tiên trong lịch sử cứu độ, là “một tạo vật mới”: Mẹ “đầy ân sủng”. Khó nắm bắt tại sao các lời của Tin Mừng Tiên khởi lại nhấn mạnh đến thế tới “người phụ nữ”, nếu không thừa nhận rằng trong bà, Giao ước mới mẻ và chung quyết của Thiên Chúa với nhân loại đã khởi sự, Giao ước trong máu cứu chuộc của Đức Kitô. Giao ước bắt đầu với một phụ nữ, “người phụ nữ” của cuộc Truyền tin tại Nadarét. Điều tuyệt đối độc đáo của Tin Mừng nằm ở đây: nhiều lần trong Cựu Ước, để can thiệp vào lịch sử của dân mình, chính Thiên Chúa ngỏ lời với đàn bà, như trường hợp các bà mẹ của Samuen và Samson. Nhưng để ký kết Giao ước của mình với nhân loại, Người chỉ ngỏ lời với đàn ông: Noê, Ápraham và Môsê. Ở khởi nguyên của Giao ước mới, vốn sẽ là giao ước vĩnh cửu và không thể thay đổi, có một phụ nữ: Trinh Nữ thành Nadarét. Đây là một dấu chỉ chĩa vào sự kiện: “trong Đức Giêsu Kitô” “không còn chuyện phân biệt đàn ông hay đàn bà” (Gl 3,28). Trong Đức Kitô, sự đối lập nhau giữa nam và nữ, vốn là di sản của nguyên tội, được thắng vượt cách triệt để. “Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”, Thánh Phaolô sẽ viết như vậy (Gl 3,28).
Những lời này liên quan đến “sự hợp nhất nguyên thủy của cả hai” vốn liên kết với việc tạo dựng con người có nam có nữ, theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, dựa trên kiểu mẫu sự hiệp thông Ngôi vị hoàn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên bố rằng mầu nhiệm cứu chuộc loài người trong Đức Giêsu Kitô, Con Đức Maria, lấy lại và canh tân cái mà trong mầu nhiệm sáng tạo tương ứng với kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa Đấng Sáng tạo. Chính vì lý do đó, vào ngày tạo dựng con người có nam có nữ, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Theo một nghĩa nào đó, việc Cứu chuộc khôi phục đến tận căn sự tốt đẹp vốn đã bị giảm thiểu cách chủ yếu bởi tội lỗi và di sản của nó trong lịch sử loài người.
“Người phụ nữ” của Tin Mừng Tiên khởi khớp với viễn ảnh của công cuộc Cứu chuộc. Sự so sánh Eva với Maria cũng có thể hiểu theo nghĩa Đức Maria đảm nhận trong chính mình và ôm trọn mầu nhiệm “người phụ nữ” mà khởi điểm là Eva, “mẹ của chúng sinh” (St 3,20). Trước hết, Đức Maria đảm nhận và ôm trọn mầu nhiệm ấy bên trong mầu nhiệm Đức Kitô, “Ađam mới và cuối cùng” (x. 1Cr 15,45), Đấng đã đảm nhận trong chính mình bản tính của Ađam đầu tiên. Yếu tính của Giao ước mới hệ tại sự kiện Con Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha vĩnh cửu, đã làm người: Người đưa nhân tính vào trong Ngôi vị thần linh duy nhất của Ngôi Lời. Đấng hoàn tất công cuộc Cứu chuộc cũng là một con người đích thực. Mầu nhiệm Cứu chuộc trần gian giả thiết rằng Thiên Chúa Con đã đảm nhận nhân tính như di sản của Ađam, trở nên giống ông và giống mọi người trong mọi sự, “ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15). Bằng cách ấy, Người “giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình”, như Công đồng Vaticanô II dạy [36]. Theo một nghĩa nào đó, Người đã và đang giúp con người khám phá “mình là ai” (x. Tv 8,5).
Trong truyền thống đức tin và suy tư Kitô giáo qua các thời đại, việc móc nối ông Ađam–Đức Kitô thường liên kết với việc móc nối bà Eva–Đức Maria. Nếu Đức Maria được mô tả như “Eva mới”, thì đâu là những ý nghĩa của loại suy này? Chắc chắn có nhiều. Đặc biệt đáng lưu ý là việc xem Đức Maria như mạc khải trọn vẹn của tất cả những gì được bao hàm trong từ ngữ Thánh Kinh “người phụ nữ”: một mạc khải tương xứng với mầu nhiệm Cứu chuộc. Theo một nghĩa nào đó, Đức Maria nói lên việc đi quá giới hạn được đề cập trong sách Sáng Thế (St 3,16) và việc trở về “khởi nguyên” nơi ta tìm thấy “người phụ nữ” như bà đã được định trở thành trong cuộc tạo dựng, và do đó trong đầu óc vĩnh cửu của Thiên Chúa: trong lòng Ba Ngôi Cực Thánh. Đức Maria là “khởi nguyên mới” cho phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ, của mọi và của mỗi phụ nữ [37].
Một chìa khóa đặc biệt để hiểu điều này có thể tìm thấy trong những lời mà Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Đức Maria sau cuộc Truyền tin, khi Mẹ đến viếng thăm bà Elisabeth: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Những lời này rõ ràng quy chiếu về việc thụ thai Con của Mẹ, vốn là “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32), “Đấng Thánh” của Thiên Chúa; nhưng chúng cũng ám chỉ việc khám phá nhân tính nữ riêng của Mẹ. Người “đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”: đây là việc khám phá tất cả sự phong phú và các khả năng riêng của nữ tính, tất cả sự độc đáo muôn thuở của “người phụ nữ”, đúng như Thiên Chúa muốn bà trở thành: một ngôi vị cho riêng mình, khám phá ra chính mình “bằng việc thành thực hiến thân”.
Việc khám phá này đi đôi với một ý thức rõ ràng về hồng ân Thiên Chúa, về lòng quảng đại của Người. Ngay từ “khởi nguyên”, tội lỗi đã làm lu mờ ý thức ấy, và theo một nghĩa nào đó, đã bóp nghẹt nó, như được bày tỏ trong những lời của cơn cám dỗ đầu tiên từ “cha sự gian dối” (x. St 3,1-5). Vào lúc gần đến “thời gian viên mãn” (x. Gl 4,4), khi mầu nhiệm Cứu chuộc bắt đầu được hoàn tất trong lịch sử nhân loại, ý thức này đã bùng nổ với tất cả sức mạnh của nó trong lời của “người phụ nữ” thành Nadarét. Trong Đức Maria, bà Eva khám phá ra bản chất phẩm giá đích thực của phụ nữ, của nhân tính nữ. Khám phá này phải liên tục đi vào con tim của mọi phụ nữ để định hình ơn gọi lẫn cuộc sống của họ.