Nhảy đến nội dung

04 Phần 04

  • T2, 27/01/2025 - 16:49
  • admin1

V. ĐỨC GIÊSU KITÔ

“Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ”

       12. Các lời của Tin Mừng Tiên khởi trong sách Sáng Thế giúp chúng ta đi vào bối cảnh của Tin Mừng. Việc Cứu chuộc con người, được báo trước trong Sáng Thế, nay trở thành một thực tại nơi bản thân và sứ mạng của Đức Giêsu Kitô, trong đó chúng ta cũng nhận ra thực tại của ơn Cứu chuộc có nghĩa là gì đối với phẩm giá và ơn gọi phụ nữ. Ý nghĩa này trở nên rõ ràng hơn cho chúng ta từ các lời của Đức Kitô và từ toàn bộ thái độ của Người đối với phụ nữ, một thái độ hết sức đơn giản và vì thế rất khác thường, nếu được nhìn trên hậu cảnh của thời đại Người. Đó là một thái độ đậm nét rõ ràng và sâu xa. Nhiều phụ nữ khác nhau xuất hiện dọc con đường sứ vụ của Đức Giêsu thành Nadarét, và việc Người gặp gỡ từng bà trong số họ là một sự xác nhận tính “mới mẻ của cuộc sống” theo Tin Mừng mà ta đã nói tới.

       Ai nấy đều thừa nhận –kể cả những người có thái độ phê bình sứ điệp Kitô giáo– rằng trước mắt những kẻ đương thời với mình, Đức Kitô đã trở thành một tay cổ vũ cho phẩm giá đích thực của phụ nữ và cho ơn gọi tương ứng với phẩm giá đó. Đôi khi điều này đã gây thán phục, sửng sốt, thường thì khiến vấp phạm: “Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ” (Ga 4,27), bởi lẽ thái độ này khác hẳn thái độ của những kẻ đương thời. Ngay các môn đệ của Đức Kitô cũng “ngạc nhiên”. Tay Pharisêu mà người đàn bà tội lỗi đã bước vào nhà ông để xức dầu thơm lên chân Đức Giêsu, “thì nghĩ bụng rằng : ‘Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biểt rõ người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một đứa tội lỗi!” (Lc 7,39). Ngay cả choáng váng, hay ngay cả “thánh nộ” hẳn đã ngập lòng những thính giả tự mãn trước các lời của Đức Kitô: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

       Bằng cách nói và làm như thế, Đức Giêsu cho thấy rõ rằng “các mầu nhiệm Nước Trời” được Người thấu hiểu đến từng chi tiết. Người cũng “biết có gì trong lòng phàm nhân” (Ga 2,25), trong hữu thể sâu kín, trong “trái tim” của họ. Người từng chứng kiến kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa cho phàm nhân được tạo dựng theo hình ảnh và giống Người, có nam có nữ. Người cũng ý thức trọn vẹn các hậu quả của tội lỗi, của “mầu nhiệm sự dữ” đang hoạt động trong trái tim phàm nhân như trái đắng của việc che khuất hình ảnh thần linh. Thật ý nghĩa chuyện trong cuộc tranh luận quan trọng của Người về hôn nhân và đặc tính bất khả phân ly của nó trước sự hiện diện của các “Kinh sư”, vốn là chuyên gia Luật theo nghề nghiệp, Đức Giêsu nhắc đến “khởi nguyên”. Câu hỏi đưa ra liên hệ đến quyền của đàn ông “được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào” (Mt 19,3), và vì thế cũng liên hệ đến quyền của đàn bà, đến vị trí chính đáng của họ trong hôn nhân, đến phẩm giá của họ. Những kẻ chất vấn nghĩ rằng họ có bên phía mình pháp chế của Môsê được theo lúc ấy tại Israen: “Thế sao ông Môsê lại truyền cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” (Mt 19,7). Đức Giêsu trả lời: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,8). Chúa Giêsu nại đến “thuở ban đầu”, đến việc tạo dựng con người có nam có nữ và đến sự sắp xếp của Thiên Chúa cho họ, vốn dựa trên sự kiện cả hai đã được tạo dựng “theo hình ảnh và giống Người”. Vì vậy, khi “một người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, để cả hai trở thành một xương một thịt”, thì vẫn hiệu lực cái luật đến từ chính Thiên Chúa: “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).

       Nguyên tắc của “ethos – luân lý” này, mà từ nguyên khởi đã đánh dấu thực tại của việc sáng tạo, giờ đây được Đức Kitô xác nhận, chống lại truyền thống vốn đã kỳ thị phụ nữ. Trong truyền thống này, đàn ông “thống trị”, không đếm xỉa gì đến đàn bà và phẩm giá của thị, mà “luân lý” của sáng tạo đã đặt làm nền tảng cho các liên hệ hỗ tương của hai con người kết hợp nhau trong hôn nhân. “Luân lý” này được lời của Đức Kitô nhắc lại và xác nhận: đó là “luân lý” của Tin Mừng và của Ơn Cứu chuộc.

      Các phụ nữ trong Tin Mừng

       13. Khi chúng ta lướt nhanh các trang Tin Mừng, nhiều phụ nữ có tuổi tác và hoàn cảnh khác nhau đi qua trước mắt chúng ta. Chúng ta gặp những phụ nữ với bệnh tật hay đau đớn thể lý, như bà “bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13,11); hay mẹ vợ ông Si-môn “lên cơn sốt, nằm trên giường” (Mc 1,30); hay người đàn bà “bị băng huyết đã mười hai năm” (x. Mc 5,25-34), không có thể chạm đến bất cứ ai vì thiên hạ tin rằng sự đụng chạm của bà sẽ làm cho một người ra “ô uế”. Mỗi bà trong họ đều đã được chữa lành, và bà cuối cùng (bị băng huyết) chạm đến áo Đức Giêsu “giữa đám đông” (Mc 5,27), đã được Người khen ngợi vì có lòng tin mạnh: “Lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Rồi có con gái ông Giairô được Đức Giêsu mang trở về cuộc sống bằng cách nói với cô dịu dàng: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (Mc 5,41). Cũng có bà góa thành Nain, mà đứa con trai duy nhất được Đức Giêsu đem về lại cuộc sống đang khi bày tỏ lòng xót thương trìu mến kèm theo hành động: “Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’” (Lc 7,13). Và cuối cùng có người đàn bà Canaan, được Đức Kitô tán dương vì đức tin, lòng khiêm tốn và tâm hồn vĩ đại mà chỉ trái tim của một người mẹ mới có thể có: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28). Bà Canaan đã xin cứu chữa con gái của mình.

       Thỉnh thoảng những phụ nữ từng được Đức Giêsu gặp và từng đón nhận nhiều ân huệ từ Người, cũng đã đi theo Người khi Người hành trình với các Tông đồ qua các thành phố và làng mạc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa; và họ “đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Tin Mừng nêu danh bà Gioanna, vợ viên quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và “nhiều bà khác nữa” (x. Lc 8,1-3).

       Đôi khi các phụ nữ xuất hiện trong những dụ ngôn mà Đức Giêsu Nadarét đã dùng để minh họa cho thính giả của mình sự thật về Vương quốc Thiên Chúa. Đó là trường hợp các dụ ngôn đồng bạc đánh mất (x. Lc 15,8-10), men bột (x. Mt 13,33), và các cô thiếu nữ khôn lẫn dại (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt hùng hồn là câu chuyện đồng tiền bà góa. Trong khi “những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền … một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”. Bấy giờ Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết… bà đã rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 21,1-4). Bằng cách ấy, Đức Giêsu giới thiệu bà như một gương mẫu cho mọi người và bênh vực bà, vì trong hệ thống xã hội-pháp lý thời đó, các bà góa là hạng người hoàn toàn chẳng được ai bảo vệ (x. thêm Lc 18,1-7).

       Trong tất cả giáo huấn cũng như thái độ của Đức Giêsu, người ta không thể tìm thấy cái gì phản ảnh sự kỳ thị đối với phụ nữ, rất phổ biến thời Người. Ngược lại, lời nói và việc làm của Người luôn luôn biểu lộ sự tôn trọng và đề cao phải có đối với phụ nữ. Người đàn bà còng lưng được gọi là “con gái của Apraham” (Lc 13,16), đang khi trong toàn bộ Thánh Kinh, tước hiệu “con cái Ápraham” chỉ dành cho đàn ông. Trên đường khổ nạn tới Gôlgôtha, Đức Giêsu nói với các phụ nữ: “Hỡi con gái thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì!” (Lc 23,28). Cách nói với và về phụ nữ như thế, cũng như cách Người đối xử với họ, rõ ràng làm nên một sự “đổi mới” đối với các phong tục thịnh hành đương thời.

       Điều này thậm chí trở thành minh nhiên hơn đối với những phụ nữ bị công luận dán nhãn đầy khinh bỉ là tội nhân, tội nhân công khai và đứa ngoại tình. Có bà xứ Samari bị chính Đức Giêsu nói: “Chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Và bà, thấy rõ Người biết những bí mật của đời mình, đã công nhận Người như Đấng Mêsia và chạy về nói với hàng xóm. Cuộc trò chuyện dẫn tới việc nhận thức này là một trong những cuộc trò chuyện đẹp nhất trong Tin Mừng (x. Ga 4,7-27).

       Rồi có nữ tội nhân công khai, mà dù bị công luận kết án, vẫn bước vào nhà ông Pharisêu, để xức dầu thơm lên chân Đức Giêsu. Trước gia chủ đang chướng tai gai mắt vì điều này, Người sẽ nói: “Tội của chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (x. Lc 7,37-47).

       Cuối cùng, có một hoàn cảnh có lẽ hùng hồn hơn cả: một phụ nữ bị bắt gặp đang phạm tội ngoại tình được đem đến cho Đức Giêsu. Trước câu hỏi mở đầu: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”, Đức Giêsu đáp: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Sức mạnh sự thật chứa trong câu trả lời này lớn lao đến độ “họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Chỉ Đức Giêsu và người đàn bà còn lại. “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” – “Thưa ngài, không ai cả!” – “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (x. Ga 8,3-11).

       Những câu chuyện ấy cung cấp một bức tranh hết sức rõ ràng. Đức Kitô là Đấng “biết có gì trong lòng con người” (x. Ga 2,25), nam lẫn nữ. Người biết phẩm giá phàm nhân, giá trị của nó trước mắt Thiên Chúa. Chính Người, Đấng Kitô, là sự xác nhận chung quyết của giá trị này. Mọi cái Người nói và làm được hoàn tất cách chung quyết trong Mầu nhiệm Vượt qua của Công cuộc Cứu chuộc. Thái độ của Đức Giêsu đối với các phụ nữ mà Người gặp trên hành trình phục vụ kiểu Mêsia của mình, phản ánh kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng khi tạo dựng từng người trong họ, đã tuyển chọn và yêu mến họ trong Đức Kitô (x. Ep 1,1-5). Vì thế mỗi phụ nữ là “thụ tạo duy nhất trên trái đất Thiên Chúa đã dựng nên vì chính họ”. Mỗi người trong họ từ “khởi nguyên” đã thừa hưởng, trong tư cách phụ nữ, phẩm giá của việc làm một ngôi vị. Đức Giêsu thành Nadarét xác nhận phẩm giá này, nhắc lại nó, canh tân nó và làm cho nó thành một phần của Tin Mừng và của công cuộc Cứu chuộc mà vì đó Người đã được sai đến trần gian.  Mọi lời nói và cử chỉ của Đức Kitô đối với phụ nữ vì thế phải được đưa vào chiều kích của Mầu nhiệm Vượt qua. Bằng cách đó, mọi sự mới được giải thích trọn vẹn.

      Người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình

       14. Đức Giêsu đi vào hoàn cảnh cụ thể và lịch sử của phụ nữ, một hoàn cảnh bị di sản tội lỗi đè nặng xuống. Một trong những cách thức qua đó di sản này biểu lộ là việc thường xuyên kỳ thị đàn bà để làm lợi cho đàn ông. Di sản đó cũng bám rễ trong đàn bà. Từ quan điểm này, câu chuyện người phụ nữ “bị bắt gặp đang ngoại tình” (x. Ga 8,3-11) thật đặc biệt hùng hồn. Vào đoạn cuối, Đức Giêsu nói với bà: “Từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng trước tiên Người gợi lên một ý thức về tội lỗi nơi mấy ông đang tố cáo bà để ném đá bà, và như thế mạc khải khả năng sâu xa của Người là nhìn thấy các lương tâm và các hành động phàm nhân trong ánh sáng đích thực của chúng. Đức Giêsu xem ra muốn nói với những kẻ tố cáo: bà này, với tất cả tội lỗi của mình, trên hết chẳng phải là một sự xác nhận những vi phạm của chính các ngươi sao, xác nhận thói bất công, những tội ác của “giới đàn ông” các ngươi sao?

       Sự thật này có giá trị cho toàn thể loài người. Câu chuyện ghi lại trong Tin Mừng Gioan được lặp lại nơi vô số hoàn cảnh tương tự trong mọi thời đại lịch sử. Một phụ nữ bị bỏ rơi đơn độc, phơi mình trước công luận với “tội lỗi của bà”, đang khi đằng sau tội “của bà” núp ẩn một người đàn ông – một tội nhân, can dự vào “tội kẻ khác”, đồng trách nhiệm thực sự về tội này. Thế mà tội của y thoát khỏi sự chú ý, được lặng lẽ bỏ qua: y xem ra không phải chịu trách nhiệm về “tội của kẻ khác”! Đôi khi, quên tội của chính mình, y thậm chí tự biến mình thành nguyên cáo, như trong trường hợp đã tả. Biết bao lần, theo cùng một cách, người đàn bà trả giá cho tội mình như thế (có thể trong vài trường hợp, thị cũng can dự vào “tội kẻ khác” – tội của người đàn ông), nhưng chỉ có thị trả giá và trả giá một mình trọn vẹn! Biết mấy lần thị bị bỏ rơi với cái thai trong bụng, khi người đàn ông, cha đứa bé, chẳng hề muốn nhận trách nhiệm? Và bên cạnh nhiều “bà mẹ không đám cưới” trong xã hội chúng ta, chúng ta cũng phải xét đến tất cả những chị em, như một hậu quả của nhiều áp lực khác nhau, thậm chí từ phía người đàn ông phạm tội, lắm khi phải “rũ bỏ” đứa con trước khi nó chào đời. “Họ rũ bỏ nó”: nhưng với giá nào đây? Công luận thời nay tìm nhiều cách khác nhau để “hủy” sự ác của tội này. Thông thường, lương tâm của một phụ nữ không để cho bà quên được rằng bà đã tước đi mạng sống của con mình, vì bà không thể phá hủy thái độ sẵn sàng chấp nhận sự sống vốn đánh dấu “ethos-luân lý” của bà ngay từ “khởi nguyên”.

       Thái độ của Đức Giêsu trong câu chuyện mô tả nơi Gioan 8,3-11 rất có ý nghĩa. Đó là một trong ít trường hợp trong đó quyền lực của Người – quyền lực của sự thật – được bày tỏ rõ ràng đến thế đối với lương tâm con người. Đức Giêsu bình thản, tự chủ và thâm trầm. Như trong cuộc trò chuyện với những người Pharisêu (x. Mt 19,3-9), Đức Giêsu chẳng ý thức mình đang tiếp xúc với mầu nhiệm của “khởi nguyên”, khi con người được tạo dựng có nam có nữ, và người nữ được trao phó cho người nam với đặc điểm nữ của bà cũng như khả năng làm mẹ của bà hay sao? Người nam cũng được Đấng Sáng Tạo trao phó cho người nữ - họ được trao phó cho nhau như những ngôi vị được tạo dựng theo hình ảnh và giống chính Thiên Chúa. Việc trao phó này là sự thử thách tình yêu, tình yêu phu phụ. Để trở nên một “tặng vật chân thành” cho nhau, mỗi người trong họ phải cảm nhận trách nhiệm về việc dâng hiến. Thử thách này nhắm cả hai – nam lẫn nữ – từ “khởi nguyên”. Sau nguyên tội, nhiều sức mạnh đối kháng hoành hành trong đàn ông và đàn bà như một hậu quả của dục vọng ba mặt, “tác nhân kích thích của tội lỗi”. Chúng tác động từ thâm tâm con người. Vì thế, Đức Giêsu sẽ nói trong Bài giảng trên Núi: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Những lời này, ngỏ trực tiếp với đàn ông, cho thấy sự thật nền tảng của trách nhiệm đương sự đối với đàn bà: đối với phẩm giá, chức làm mẹ, ơn gọi của đàn bà. Nhưng cách gián tiếp, các lời ấy cũng liên hệ tới phụ nữ. Đức Kitô đã làm tất cả những gì có thể để bảo đảm rằng – trong bối cảnh các phong tục và tương quan xã hội đương thời – phụ nữ sẽ tìm thấy trong giáo huấn và hành vi của Người chủ thể tính và phẩm giá của riêng họ. Dựa trên “sự hợp nhất của cả hai” mang tính vĩnh cửu, phẩm giá ấy trực tiếp tùy thuộc chính người nữ, như một chủ thể chịu trách nhiệm về chính mình, và đồng thời nó cũng “được ban như một nhiệm vụ” cho người nam. Một cách lô-gích, Đức Kitô kêu gọi trách nhiệm của người nam. Trong bài suy niệm hiện tại về phẩm giá và ơn gọi phụ nữ, cần phải nhắc đến bối cảnh mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng. Phẩm giá và ơn gọi của đàn bà – cũng như phẩm giả và ơn gọi của đàn ông – tìm thấy nguồn mạch vĩnh cửu của chúng trong trái tim Thiên Chúa. Và trong những điều kiện trần thế của cuộc sống con người, chúng liên hệ chặt chẽ với “sự hợp nhất của cả hai”. Vì thế mỗi người nam phải xét trong chính mình, xem người nữ đã được trao phó cho mình như một chị em cùng nhân tính, như một người vợ, có đang trở nên trong tâm tư mình một đối tượng để ngoại tình hay không; xem người nữ, theo nhiều cách thức, là đồng chủ thể của cuộc sống mình trong trần gian, có đang trở nên một “đối tượng” cho mình: đối tượng để hưởng lạc, để bóc lột hay không.

      Những nữ bảo vệ sứ điệp Tin Mừng

       15. Cách thức hành động của Đức Kitô, Tin Mừng của lời Người nói và việc Người làm, là một sự phản kháng nhất quán chống lại bất cứ cái gì xúc phạm phẩm giá phụ nữ. Vì thế, các phụ nữ cận kề Đức Kitô đều khám phá ra chính mình trong chân lý Người “dạy” và “làm”, ngay cả khi sự thật đó liên can đến “tội trạng” của họ. Họ cảm thấy “được giải thoát” nhờ sự thật ấy, được trả lại cho chính mình: họ cảm thấy được yêu với “tình yêu vĩnh cửu”, với một tình yêu biểu lộ trực tiếp trong chính Đức Kitô.

       Trong phạm vi hoạt động của Đức Kitô, vị trí của họ được biến đổi. Họ cảm thấy rằng Chúa Giêsu đang nói với họ về các vấn đề mà trong những thời đó người ta đã chẳng thảo luận với phụ nữ. Có lẽ ví dụ ý nghĩa nhất cho điều này là chuyện bà Samari bên bờ giếng Xykha. Đức Giêsu -vốn biết bà là một tội nhân và nói với bà về điều đón- vẫn thảo luận những mầu nhiệm sâu xa nhất của Thiên Chúa với bà. Người nói với bà về quà tặng tình yêu vô biên của Thiên Chúa, vốn như một “mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Người nói với bà về Thiên Chúa là Thần Khí, và về việc thờ phượng đích thực mà Chúa Cha có quyền nhận trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,24). Cuối cùng, Người mạc khải cho bà biết mình là Đấng Mêsia được hứa cho Israen (x. Ga 4,26).

       Đây là một biến cố chưa từng xảy đến: một phụ nữ, hơn nữa là một “phụ nữ tội lỗi”, trở thành một “môn đệ” của Đức Kitô. Thật thế, một khi được dạy dỗ, bà công bố Đức Kitô cho cư dân Samari đến độ họ cũng đón nhận Người với niềm tin (x. Ga 4,39-42). Đây là một biến cố chưa hề thấy, nếu người ta nhớ tới cách thức thông thường mà các phụ nữ từng bị đối xử bởi những kẻ vốn là bậc thầy trong Israen; đang khi trong cách hành động của Đức Giêsu Nadarét, một sự kiện như thế trở nên bình thường. Liên quan với điều này, hai chị em của Ladarô cũng đáng đề cập cách đặc biệt: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (x. Ga 11,5). Cô Maria “từng chăm chú nghe Đức Giêsu giảng dạy”: trong một lần đến thăm họ, Người đã gọi thái độ của Maria là “phần tốt nhất”, trái ngược với việc Mácta ưu tư các chuyện trong nhà (x. Lc 10,38-42). Trong một dịp khác – sau khi Ladarô chết – Mácta là người nói chuyện với Đức Kitô, và cuộc trò chuyện liên quan đến những chân lý sâu xa nhất của mạc khải và đức tin: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” – “Em chị sẽ sống lại” – “Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Đức Giêsu nói với cô: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” – “Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. (Ga 11,21-27). Sau lời tuyên tín này, Đức Giêsu cho Ladarô sống lại. Cuộc trò chuyện ấy với Mácta là một trong những cuộc trò chuyện quan trọng nhất trong Tin Mừng.

       Đức Kitô nói với các phụ nữ về những chuyện của Thiên Chúa và họ đều hiểu; có một âm vang thực trong tâm và trí, một lời đáp trả của đức tin nơi họ. Đức Giêsu bày tỏ cảm kích và khen ngợi đối với lời đáp trả “đầy nữ tính” rõ ràng này, như trong trường hợp bà Canaan (x. Mt 15,28). Đôi khi Người trình bày đức tin sống động, chan chứa tình yêu ấy như một gương mẫu. Vì thế, Người lấy lời đáp trả của tâm và trí phụ nữ ấy làm khởi điểm cho lời giảng dạy của mình. Đó là trường hợp chị đàn bà “tội lỗi” trong nhà ông Pharisêu, cách thức hành động của chị được Đức Giêsu lấy làm khởi điểm để giải thích chân lý về việc tha thứ tội lỗi: “Tội của chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47). Trong một dịp xức dầu khác, Đức Giêsu đã bênh vực người phụ nữ và hành động của cô trước các môn đệ, đặc biệt là Giuđa: “Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm cho Thầy một việc nghĩa (…). Cô ấy đổ dầu thơm trên mình Thầy là hướng về ngày mai táng Thầy. Thầy bảo thật anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô” (Mt 26,6-13).

       Thật thế, các Tin Mừng không chỉ mô tả những gì người phụ nữ làng Bêtania đã làm tại nhà ông Simon Cùi, nhưng còn nêu bật sự kiện là các bà đã đứng hàng đầu dưới chân Thập giá, vào giây phút quyết định trong toàn bộ sứ vụ Mêsia của Đức Giêsu Nadarét. Gioan là Tông đồ duy nhất vẫn trung tín, nhưng có nhiều phụ nữ tín trung. Không những Mẹ Đức Kitô và “chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát cùng với bà Maria Mácđala” (Ga 19,25) hiện diện, nhưng “cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa; các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê để giúp đỡ Người” (Mt 27,55). Như chúng ta thấy, trong thử thách đức tin và lòng trung gay go nhất ấy, các phụ nữ đã chứng tỏ mạnh mẽ hơn các Tông đồ. Trong giây phút nguy hiểm ấy, những ai yêu nhiều thì đã vượt thắng được sự sợ hãi của họ. Trước chuyện này, đã có các phụ nữ trên Đường Khổ nạn (Via Dolorosa) họ vừa đấm ngực vừa than khóc Người” (Lc 23,27). Sớm hơn nữa, có bà vợ ông Philatô, vốn đã cảnh cáo chồng mình: “Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy” (Mt 27,19).

      Những chứng nhân đầu tiên của cuộc Phục sinh

       16. Ngay từ đầu sứ vụ Đức Kitô, các phụ nữ đã tỏ ra đối với Người và đối với mầu nhiệm của Người một sự nhạy cảm đặc biệt vốn đặc trưng cho nữ tính của họ. Cũng phải nói rằng điều đó được xác nhận cách đặc biệt trong Mầu nhiệm Vượt qua, không những bên Thập giá mà còn vào sáng ngày Phục sinh. Các bà là những người đầu tiên đến mộ. Họ là những người đầu tiên nhìn thấy mộ trống. Họ là những người đầu tiên được nghe: “Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói” (Mt 28,6). Họ là những người đầu tiên ôm lấy chân Chúa (x. Mt 28,9). Họ cũng là những người đầu tiên được kêu gọi loan báo sự thật này cho các Tông đồ (x. Mt 28,1-10; Lc 24,8-11). Tin Mừng Gioan (x. cả Mc 16,9) nhấn mạnh vai trò đặc biệt của bà Maria Mácđala. Bà là người đầu tiên gặp Đức Kitô sống lại. Thoạt tiên bà nghĩ Người là ông làm vườn; bà chỉ nhận ra Người khi Người gọi bà đích danh: “Đức Giêsu gọi bà: ‘Maria!’ Bà quay lại và nói bằng tiếng Hip-ri: ‘Rápbuni!’ (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). Đức Giêsu bảo: ‘Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em!’. Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: ‘Tôi đã thấy Chúa’, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà” (Ga 20,16-18).

       Vì thế, bà đã được mệnh danh là “tông đồ của các Tông đồ” [38]. Maria Mácđala là chứng nhân tận mắt đầu tiên của Đức Kitô phục sinh, và vì thế bà cũng là kẻ đầu tiên làm chứng cho Người trước mặt các Tông đồ. Biến cố này, theo một nghĩa nào đó, kết thúc tốt đẹp tất cả những gì đã nói trước đây về việc Đức Kitô đã trao phó các sự thật thần linh cho các người nữ lẫn các người nam. Chúng ta có thể nói rằng điều này ứng nghiệm các lời của vị Ngôn sứ: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ” (Ge 3,1). Năm mươi ngày sau cuộc Phục sinh của Đức Kitô, những lời này được xác nhận lần nữa nơi Lầu Trên (Nhà Tiệc Ly) tại Giêrusalem, lúc Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ, ngự xuống (x. Cv 2,17).

       Tất cả những gì đã được nói cho đến nay về thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ xác nhận và soi sáng, trong Thánh Thần, chân lý về sự bình đẳng của đàn ông và đàn bà. Người ta phải nói đến một sự “bình đẳng” chủ yếu, vì cả hai – nam lẫn nữ – đều được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Cả hai có cùng khả năng đón nhận việc tuôn đổ sự thật và tình yêu thần linh trong Thánh Thần. Cả hai đón nhận các “cuộc thăm viếng” cứu độ và thánh hóa của Người.

       Sự kiện làm một người nam hay làm một người nữ chẳng bao hàm giới hạn nào ở đây, y như hoạt động cứu độ và thánh hóa của Chúa Thánh Thần trong con người chẳng hề bị giới hạn bởi sự kiện đó là một người Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, theo những lời nổi tiếng của Thánh Phaolô: “Vì tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28). Sự hợp nhất này không xóa bỏ sự khác biệt. Chúa Thánh Thần, Đấng tạo ra sự hợp nhất này trong trật tự siêu nhiên của ân sủng thánh hóa, góp phần làm nên, trong mức độ bằng nhau, sự kiện “con trai các ngươi sẽ nói tiên tri” và “con gái các ngươi sẽ nói tiên tri”. “Nói tiên tri” (làm ngôn sứ) có nghĩa là dùng lời nói lẫn cuộc sống của mình để loan báo “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11), bảo toàn sự thật và độc đáo tính của mỗi con người, dù nam hay nữ. Sự “bình đẳng” theo Tin Mừng, sự “bình đẳng” của nữ và nam trước “những kỳ công của Thiên Chúa” -được biểu lộ hết sức rõ ràng trong lời nói và việc làm của Đức Giêsu Nadarét- tạo thành nền tảng hiển nhiên nhất cho phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo hội và trong thế giới. Mọi ơn gọi đều có một ý nghĩa cá nhân và ngôn sứ sâu xa. Trong “ơn gọi” hiểu theo lối ấy, nhân cách người nữ đạt được một chiều kích mới: chiều kích “các kỳ công của Thiên Chúa”, nghĩa là phụ nữ trở thành chủ thể sống động và chứng nhân bất khả thay thế của các kỳ công này.