04 Chương 4
CHƯƠNG 4
MẤY NÉT TIÊU BIỂU VỀ SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
110. Giữa bức tranh toàn cảnh của sự thánh thiện được các mối Phúc thật và đoạn 25,31-46 của thánh Matthêu đưa ra, tôi muốn lưu ý riêng đến vài nét đặc thù tiêu biểu về đàng tâm linh, mà tôi cho là rất cần thiết để hiểu được cách sống Chúa đang mời gọi ta. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích những phương tiện thánh hóa mà ta đã biết: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí tích Thánh Thể và Hòa giải vô giá, việc dâng những hy sinh của mình, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và bao nhiêu việc khác nữa. Tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ âm vang một cách đặc biệt.
111. Những nét tiêu biểu tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm diễn tả nổi bật về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt do một số nguy cơ và giới hạn riêng của văn hoá ngày nay. Giữa cái văn hóa ấy ta cảm thấy một nỗi lo lắng bực bội gần như muốn bạo động, khiến ta quẫn trí và suy nhược; sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ; chủ nghĩa cá nhân; và đủ thứ hình thức tâm linh lệch lạc, không ăn nhập gì với Thiên Chúa, hiện đang thống trị cái chợ đời hỗn độn về tôn giáo thời nay.
KIÊN TRÌ, KIÊN NHẪN VÀ HIỀN LÀNH
112. Nét đầu tiên trong những nét tiêu biểu trổi vượt này là sự tập trung vào Thiên Chúa và bám chặt vào Chúa là Đấng yêu thương và nâng đỡ ta. Đây là nguồn sức mạnh nội tâm giúp ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, mà cũng giúp ta chịu đựng được sự thù ghét, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên Chúa giúp ta, thì ai chống lại được ta?” (Rm 8,31): Đây là nguồn bình an ta gặp được nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến ta có thể làm chứng về sự thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong cái thế giới đầy biến động, ồn ào và năng nổ của ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ tình yêu, vì chỉ những ai tín thác vào Thiên Chúa (pístis) mới có thể trung tín với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm như thế có thể không gặp được sự vui thoả tức thì.
113. Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (x. Rm 12,17), đừng tự mình báo oán (x. 19), đừng để bị sự dữ khuất phục, nhưng lấy điều lành mà khuất phục sự dữ (x. 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối nhưng là của sức mạnh thật sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất quyền năng” (Nh1,3). Lời Chúa dạy ta “đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
114. Ta cần phải vật lộn với các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đề phòng đừng để cho chúng bén rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi cảm thấy bị đuối sức, ta vẫn luôn có thể bám chặt lấy sự cầu nguyện như chiếc mỏ neo đưa chúng ta về lại với vòng tay Thiên Chúa là nguồn bình an của ta. “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,6-7).
115. Người Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng internet và các diễn đàn truyền thông kỹ thuật số khác nhau. Ngay cả nơi những phương tiện truyền thông Công Giáo, người ta vẫn có thể đi quá mức, chuyện phỉ báng và vu khống có thể thành cơm bữa, có thể gạt bỏ mất mọi tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng thanh danh người khác. Kết quả là một sự phân cực nguy hiểm, vì ở đó người ta nói những chuyện không thể nào chấp nhận được khi nói trước công chúng, và người ta tìm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ người khác. Điều đáng quan tâm là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại thanh danh người khác. Họ mặc sức chứng tỏ cho thiên hạ thấy rằng “cái lưỡi là thế giới của sự ác” và “đốt cháy vòng xoay cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy”(Gc 3,6).
116. Cần có sức mạnh nội tâm, là công trình của ân sủng, ta mới tránh khỏi bị cuốn theo bạo lực, hiện đang tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm bớt tính ham danh và giúp ta dễ trở nên hiền lành trong lòng. Các thánh không phí sức than phiền về những sai sót của người khác; các ngài có thể nín câm trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài cho là mình không xứng đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng luôn coi kẻ khác “hơn mình” (Pl2,3).
117. Thật không tốt nếu ta đóng vai những quan toà tàn nhẫn, nhìn xuống người khác, coi họ là không xứng đáng và luôn tìm cách dạy họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh vi [1]. Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Bạn hãy thích được mọi người dạy khôn bạn hơn là mong muốn được dạy khôn một người nào, dù là người bé nhỏ nhất”[2]. Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Bạn hãy vui mừng vì sự may lành của người khác như thể đó là sự may lành của chính bạn, ao ước cho họ được trổi vượt hơn bạn trong mọi chuyện, và ao ước như vậy với tất cả tấm lòng. Làm như thế, bạn sẽ lấy sự lành mà thắng sự dữ (Rm 12, 21), bạn sẽ đuổi ma quỷ chạy xa và lòng bạn sẽ đầy an vui hạnh phúc. Bạn càng ít thiện cảm với người nào thì càng phải cố gắng thực tập như vậy với người ấy. Hãy nhớ rằng nếu bạn không bắt mình làm như vậy, bạn sẽ chẳng đạt được đức ái đích thật và cũng sẽ không tiến bước được gì trên đường đức ái” [3]
118. Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua những sự hạ nhục. Không có sỉ nhục, thì không có khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì bạn chưa khiêm tốn và chưa phải là đang trên con đường nên thánh. Để ban sự thánh thiện cho Hội thánh Ngài, Thiên Chúa đã đành phải cho Con Ngài chịu nhục nhã. Chúa Giêsu là đường. Sự sỉ nhục làm cho bạn giống Ngài; đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. “Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Ngài.” (1 Pr 2,21). Ngài đã tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng đã hạ mình xuống đồng hành với dân mình, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23-12,2; Lc 6,36). Cũng chính vì thế mà các Tông Đồ, sau khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh bi thảm của việc tử vì đạo, nhưng còn nói về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2,20). Điều ấy không có nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn xã hội. Đôi khi, chính vì được thoát khỏi ích kỷ, họ có thể dám ôn tồn phản bác, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền thế, ngay cả khi việc ấy có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi không bảo những sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì nói thế chẳng khác nào chủ trương tìm khoái cảm trong khổ nhục, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa Giêsu và lớn lên trong sự hiệp nhất với Ngài. Trên bình diện thuần túy tự nhiên, điều ấy không thể hiểu được, và thế gian chế giễu bất kỳ khái niệm nào như thế. Thế nhưng, đây là một ân sủng ta cần phải cầu xin: “Lạy Chúa, khi sự sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Muốn có thể ứng xử như thế, cần có một con tim được Đức Kitô ban bình an và giải thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá coi trọng mình. Cũng chính ơn bình an mà ân sủng đem lại cho ta như thế giữ cho ta được vững tâm, sẵn lòng chịu đựng và kiên trì trong điều lành, “dù đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23,4) hoặc “Dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong Chúa, là Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4,8). Tắt một lời, Đức Kitô, “là bình an của ta” (Ep 2,14); Ngài đã đến “để dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Ngài đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại tín thác vào lòng thương xót của Ta” [4]. Vì vậy, ta đừng để mình rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong sự thành công, trong những thú vui vô bổ, chiếm hữu của cải, chứng tỏ quyền lực trên người khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” (Ga 14,27).
VUI VẺ VÀ BIẾT ĐÙA
122. Những điều vừa nói trên không hề ngụ ý một tinh thần nhút nhát, đắng cay hoặc u sầu, hoặc một vẻ mặt thê lương bạc nhược. Các thánh vui tươi và rất biết đùa. Mặc dù không xa rời thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Sống đời Kitô hữu là sống “hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “tình bác ái nhất thiết sẽ đem lại niềm vui; hễ đã yêu thì bao giờ cũng vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu mến... hoa quả của lòng bác ái là niềm vui” [5].
Khi nhận được quà tặng cao đẹp của Lời Chúa, ta ôm chặt lấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx1,6). Nếu ta biết để cho Chúa kéo ra khỏi cái vỏ cố hữu và thay đổi cuộc sống cho ta, ta có thể sống như Thánh Phaolô đã nói với ta: “Hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4,4).
123. Các ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà hiện ta đang sống, như một mặc khải về niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh!” (Is 40,9). “Hỡi núi non hãy bật tiếng hò reo! Vì Đức Chúa ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dc 9,9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của ông Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (8,10).
124. Đức Maria, khi nhận ra điều mới lạ mà trẻ Giêsu mang đến, đã hát lên: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng” (Lc 1,47). Chính Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10,21). Khi Ngài đi ngang qua, “toàn thể đám đông vui mừng” (Lc 13,17). Sau khi Chúa Phục sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui mừng” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với ta rằng: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui… Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,20.22). “Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15,11).
125. Vẫn có những lúc khó khăn, những thời khắc của thập giá, nhưng không gì có thể huỷ diệt niềm vui siêu nhiên là niềm vui “tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm xác tín của ta, tin chắc rằng, bất luận thế nào, chúng ta vẫn được Thiên Chúa thương yêu vô cùng” [6]. Niềm vui ấy đem lại một sự vững tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng đem lại một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm vui Kitô giáo thường được đi kèm với một cảm thức hài hước, nổi bật nơi Thánh Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri chẳng hạn. Sự khôi hài bệnh hoạn không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11,10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui hưởng” (1 Tm6,17), cho nên đôi khi buồn rầu có thể là dấu hiệu của sự vô ơn, vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa [7].
127. Với tình yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình ... Đừng từ chối hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn ta tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã tạo ra con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv7,14.29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có” (Ph4,11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa hiện đang lan rộng trong một số môi trường văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chỉ biến con tim thành nặng nề. Nó có thể mang lại cho ta những khoái cảm ngẫu hứng và chóng qua, nhưng không phải là niềm vui. Điều tôi nhắm nói đến là niềm vui trong tình hiệp thông, là chia sẻ và dự phần, vì “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,35) và “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr9,7). Tình yêu huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho ta có thể vui vì điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2 Cr 13,9). Mặt khác, nếu ta “chỉ biết nghĩ đến các nhu cầu của mình thôi, ta tự kết án mình phải sống một cuộc sống ít hạnh phúc” [8].
MẠNH DẠN VÀ NHIỆT THÀNH
129. Sự thánh thiện đồng thời cũng là parrhesía (dũng cảm), tức là sự mạnh dạn, một động lực thúc đẩy việc phúc âm hoá và để lại dấu ấn trên thế gian này. Để ta được mạnh dạn, chính Chúa Giêsu đến gặp ta và lại nói với ta một lần nữa, bình thản mà chắc nịch: “Đừng sợ!” (Mc 6,50). “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời ấy cho ta được bước đi và phục vụ với cùng một lòng can trường mà Chúa Thánh Thần đã khuấy lên trong các Tông Đồ, thúc đẩy họ loan báo về Chúa Giêsu Kitô. Sự mạnh dạn, sự hăng say, dám ăn nói, nhiệt tình tông đồ, tất cả những điều ấy được bao gồm trong từ dũng cảm. Đây cũng là từ mà Kinh thánh dùng để mô tả sự tự do của một cuộc sống rộng mở cho Thiên Chúa và cho người khác (x. Cv4,29;9,28; 28,31; 2 Cr3,12; Ep 3,12; Dt3,6, 10,19).
130. Chân Phước Phaolô VI khi nói đến những trở ngại cho việc rao giảng Tin mừng, đã nêu rõ sự thiếu dũng cảm là điều “trầm trọng hơn cả bởi vì nó xuất phát từ bên trong” [9]. Ta thường bị cám dỗ để quanh quẩn gần bờ! Thế nhưng Chúa lại gọi ta chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới (x. Lc5,4). Ngài mời ta hiến thân phục vụ Ngài. Bám chặt vào Ngài, ta quả cảm đem hết mọi đặc sủng của mình ra phục vụ tha nhân. Ước gì ta luôn cảm thấy được tình yêu của Ngài thúc đẩy (2 Cr5,14) và cùng thốt lên với Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng!” (1 Cr9,16).
131. Ta hãy nhìn Chúa Giêsu. Lòng cảm thương sâu xa thúc đẩy Ngài đến với người khác. Nó không khiến Ngài ngập ngừng, bị tê liệt, hoặc xấu hổ như đã từng xảy ra với ta biết bao lần. Quả là ngược hẳn. Lòng thương cảm thúc đẩy Ngài ra khỏi chính mình để mạnh mẽ rao giảng và sai người khác đi chữa lành và giải thoát. Ta hãy nhìn nhận sự yếu đuối của mình, rồi để cho Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy nó và sai ta đi truyền giáo. Ta yếu đuối thật đấy, nhưng ta lại mang sẵn một kho báu có sức làm cho ta lớn lên và làm cho những người đón nhận nó trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự mạnh dạn và lòng can đảm tông đồ là một trong những nét tiêu biểu của sứ vụ.
132. Dũng cảm là dấu ấn của Chúa Thánh Thần; xác nhận cho việc rao giảng của ta. Nó là một đảm bảo diễm phúc đưa ta đến chỗ được vinh quang trong Tin mừng mà ta công bố. Nó giúp ta vững tin không lay chuyển vào sự trung thành của vị Chứng Nhân làm cho ta biết chắc rằng không gì có thể “tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
133. Ta cần được Chúa Thánh Thần thúc giục để không bị tê liệt vì sợ hãi và vì thận trọng quá mức, để không còn quen thói lẩn quẩn trong những ranh giới an toàn. Hãy nhớ rằng những gì bị đóng kín thì sẽ ẩm mốc và sẽ khiến ta bị bệnh. Khi các Tông Đồ thấy bị cám dỗ án binh bất động do sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã cùng nhau cầu nguyện để xin ơn dũng cảm: “Và giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói Lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv4,29). Kết quả là, “khi các ngài cầu nguyện xong, thì nơi các ngài họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa” (Cv4,31).
134. Như ngôn sứ Giôna, ta luôn bị cám dỗ chạy trốn tìm nơi ẩn náu an toàn. Nơi ẩn náu này có thể mang nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình trong vỏ sò, nghiện ngập, cố chấp, rập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc. Cũng có thể ta không chịu ra ngoài những vùng mình biết và biết rõ như trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những khó khăn ấy chẳng khác nào như cơn bão, con cá voi hay con sâu làm héo cây thầu dầu của ông Giona, hoặc cơn gió và mặt trời đốt cháy đầu của ông. Và cũng như trong câu chuyện Giôna, chúng có thể được dùng để khiến ta quay về với Thiên Chúa nhân hiền, Đấng muốn dẫn dắt ta theo một cuộc hành trình liên tục và đổi mới .
135. Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy ta lại ra đi và đổi chỗ để thoát khỏi những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và những biên giới. Ngài dẫn ta đến những nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ! Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ những vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Pl2,6-8; Ga1,14). Vì vậy, nếu ta dám đi đến những vùng ngoại vi, ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; đúng vậy, Ngài đã có mặt ở đó sẵn rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của họ, trong linh hồn bị biến thành đen tối của họ. Ngài đã ở đó sẵn rồi.
136. Quả thật, ta cần mở cửa lòng mình cho Chúa Giêsu, bởi vì Ngài gõ cửa và gọi (xem Kh3,20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi phải chăng, Chúa Giêsu đã ở trong ta và đang gõ để ta mở cửa cho Ngài thoát khỏi cái không khí ngột ngạt do ta chỉ biết quy về mình! Trong Tin mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng mạc, rao giảng và công bố Tin mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc8,1). Sau Phục sinh, khi các môn đệ tỏa đi khắp nơi, Chúa đã đồng hành với họ (x. Mc 16,20). Nếu đã thật sự gặp gỡ Chúa thì hẳn là phải như thế.
137. Cái hài lòng tự mãn với thói quen bao giờ cũng cuốn hút ta; nó bảo ta rằng tại sao cứ phải vất vả thay đổi sự việc, rằng trước hoàn cảnh này chẳng làm gì được đâu, rằng xưa nay mọi sự vẫn luôn như thế thì ta phải tiếp tục như thế. Do đã thành nếp, ta không còn phải đương đầu với chuyện chẳng lành và chỉ cần cho “mọi sự cứ đâu vào đó”, hoặc như đã có ai khác định sẵn là chúng phải như thế. Tuy nhiên, ta hãy để Chúa đến đánh thức ta khỏi cơn mê, giải phóng ta khỏi cái ù lì chậm chạp! Ta hãy đương đầu với cái nếp của mình; hãy mở mắt, mở tai ra, và trên hết hãy mở lòng ra, để cho mình được kích động bởi những gì xảy ra chung quanh và bởi tiếng kêu gọi của Lời sinh động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh.
138. Ta hãy chạy theo gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao giảng Tin mừng và phục vụ cách trung thành, biết bao lần phải liều mất mạng sống và rõ ràng là phải trả giá bằng việc hy sinh sự thoải mái của mình. Chứng từ của họ nhắc ta nhớ rằng Hội thánh không cần những quan lại và công chức, nhưng cần những nhà truyền giáo hăng say, được lòng nhiệt thành nghiến nát để chia sẻ sự sống cho người khác. Các thánh khiến ta ngạc nhiên và lúng túng, bởi vì đời sống của các ngài mời gọi ta ra khỏi tình trạng tầm thường trầm lặng và tê liệt của mình.
139. Ta hãy xin Chúa ban cho ơn biết không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi ta tiến lên một bước. Ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin mừng cho người khác và từ bỏ việc cố gắng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng kỷ niệm. Trong mọi hoàn cảnh, hãy xin Chúa Thánh Thần làm cho ta biết chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Có thế, Hội thánh mới thôi trì trệ để liên lỉ đón nhận những điều đáng kinh ngạc của Chúa.
HIỆP THÔNG HÒA HỢP VỚI CỘNG ĐỒNG
140. Nếu ta sống quá cô lập, sẽ thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về nhục dục, những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ cũng như sự ích kỷ của thế gian. Cuộc tấn công mãnh liệt đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại, mất cả sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.
141. Việc nên thánh là một chuyến đi với cộng đồng, cùng bước bên nhau. Một số cộng đồng thánh thiện phản ánh điều ấy. Một đôi trường hợp, Hội thánh đã phong thánh cho nguyên cả một cộng đồng đã cùng sống Tin mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Chẳng hạn như bảy vị thánh sáng lập Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước tại Tu viện đầu tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản gồm Thánh Phaolô Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc gồm Thánh Anrê Taegon và đồng bạn, hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ, Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo. Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi người phối ngẫu trở thành một phương tiện Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một môn đệ ngài: “Hãy hiểu rằng bạn vào dòng là để cho mọi người xài xể bạn và thử thách bạn” [10].
142. Cộng đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian hướng thần trong đó người ta có thể cảm nghiệm được sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục sinh” [11]. Việc cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể gia tăng tình huynh đệ và biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh Augustinô và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng trải qua. “Khi gần đến ngày mẹ con ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ còn chúng con thì không-, đã xảy ra một chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa: lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn [...]. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa [...]. Và khi chúng con nói chuyện cùng khao khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ chạm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí một cách hoàn toàn đột ngột […]. Sự sống đời đời như trực giác trong giây phút ấy làm cho chúng con luyến tiếc” [12].
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu sĩ hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho nhỏ hàng ngày. Đó là điều đã xảy ra nơi cộng đồng thánh hợp thành bởi Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, cộng đồng đã phản ánh một cách mẫu mực vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi. Đó là điều đã xảy ra nơi cuộc sống mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ và đám người giản dị.
144. Ta hãy nhớ lại Chúa Giêsu vẫn mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.
Chi tiết nhỏ về chuyện hết rượu trong một bữa tiệc.
Chi tiết nhỏ về một con chiên lạc.
Chi tiết nhỏ về bà goá dâng cúng hai đồng xu nhỏ.
Chi tiết nhỏ về việc đem thêm dầu phòng khi chàng rể đến chậm.
Chi tiết nhỏ khi Ngài bảo các môn đệ xem lại coi các ông có mấy ổ bánh.
Chi tiết nhỏ về chuyện Ngài đã nhóm sẵn lửa và nướng cá khi chờ các môn đệ lúc tinh sương.
145. Cộng đồng chăm chút từng chi tiết yêu thương nhỏ nhặt [13], ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và đượm chất Tin mừng, là nơi Chúa Phục sinh hiện diện và thánh hóa nó theo kế hoạch của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ một món quà yêu thương của Chúa, giữa những chi tiết nho nhỏ ấy, ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm đầy an ủi. “Một buổi tối mùa đông tôi đang lo những việc nhỏ của phận mình như thường lệ [...] Đột nhiên, tôi nghe thấy từ xa vọng lại âm thanh dặt dìu của một nhạc cụ. Tôi mơ màng nghĩ đến một phòng khách sáng choang, trang hoàng lộng lẫy, đầy những người nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện, chúc mừng nhau với đủ thứ kiểu cách thế gian. Rồi ánh mắt tôi dừng lại trên người đàn bà khốn khổ tàn tật tôi đang giúp đỡ. Thay vì những tiếng nhạc dịu dàng, tôi chỉ thỉnh thoảng nghe thấy những lời bà than thở [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy ra trong lòng tôi. Tôi chỉ biết rằng Chúa đã soi sáng cõi lòng ấy bằng những tia chân lý vượt xa cái rực rỡ tăm tối của những lễ hội trần thế. Tôi không thể tin được làm sao mình lại hạnh phúc đến thế”[14].
146. Ngược hẳn với chiều hướng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ mà cuối cùng sẽ khiến ta thành cô độc trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc bất chấp người khác, nẻo đường nên thánh mà ta đang theo sẽ không thôi làm cho ta được nên như điều Chúa Giêsu ao ước: “Lạy Cha, xin cho tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).
TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ
147. Cuối cùng, mặc dù có vẻ là chuyện hiển nhiên, ta cần nhớ rằng sự thánh thiện cốt ở chỗ thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và thấy mình cần hiệp thông với Thiên Chúa. Họ không thể chịu nổi cảnh bị ngột ngạt khép kín lại bên trong thế giới này. Giữa lúc cố gắng và dấn thân, họ khao khát Chúa, họ ra khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào thứ thánh thiện thiếu cầu nguyện, dù không nhất thiết phải cầu nguyện dài dòng hoặc có những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa, sự hiện diện thật, sự hiện diện trong tâm tưởng hay sự hiện diện hiệp nhất, tùy thực tế công việc cho phép.” [15]. Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Bạn nên cố gắng để cầu nguyện không ngừng, và ngay cả khi tập luyện thân thể cũng đừng bỏ việc cầu nguyện. Dù bạn ăn, uống, nói, chuyện vãn với người đời hay là làm bất cứ điều gì khác, bạn luôn nên làm như thế với lòng khao khát Chúa và hướng hết lòng trí của bạn vào Ngài” [16].
149. Tuy nhiên, muốn được như thế, cần phải có một số khoảnh khắc dành riêng cho Thiên Chúa, để sống một mình với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, “cầu nguyện không gì khác hơn là một cuộc trao đổi thân tình và là cuộc đàm đạo thường xuyên một mình mình với Đấng mà chúng ta biết là rất yêu thương chúng ta” [17]. Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không phải chỉ riêng cho một số ít người đặc ân, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều từng cần đến sự thinh lặng chứa đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” [18]. Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một phản ứng của trái tim đang mở ra để giáp mặt gặp gỡ Thiên Chúa, ở đó mọi tiếng động đều phải im bặt để lắng nghe tiếng Chúa dịu dàng vang lên giữa thinh lặng.
150. Trong sự thinh lặng ấy, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể phân định được những nẻo đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi ta. Nếu không, mọi quyết định của ta chỉ là những “đồ trang trí”, thay vì đề cao Tin mừng giữa đời ta, thì lại che lấp mất hoặc khiến Tin mừng bị chết ngạt. Đã là môn đệ, điều cần thiết là phải ở với Thầy, lắng nghe Ngài, và luôn luôn học hỏi với Ngài. Nếu không lắng nghe Ngài, mọi lời ta nói sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô ích.
151. Cần nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và Sống Lại, giúp nhân tính của ta được phục hồi, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những thăng trầm của cuộc sống hoặc mang đầy vết tích tội lỗi. Ta không được tìm cách uốn nắn để làm chủ quyền năng của dung nhan Đức Kitô” [19]. Vì vậy, tôi xin được hỏi: Liệu có lúc nào bạn đã đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, ở đó bạn nghỉ ngơi thanh thản với Ngài, và để cho Ngài nhìn ngắm bạn không? Bạn có để cho lửa của Ngài cháy lên trong lòng bạn không? Nếu bạn không để cho Ngài nhóm lên sức nóng tình yêu và sự dịu hiền của Ngài, bạn sẽ không có lửa. Và như thế làm sao bạn có thể dùng chứng tích và lời nói của bạn để đốt cháy trái tim những người khác được? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, bạn chưa thấy có thể để cho mình được Lời Ngài chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Thánh Tâm Chúa, vào trong những vết thương của Ngài, vì đó là toà của Lòng Thương Xót Chúa [20].
152. Tuy nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự thinh lặng trong cầu nguyện là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành hương đất Nga”, người đã bước đi trong cầu nguyện liên tục, bảo rằng cách cầu nguyện như vậy không hề tách lìa ông khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông: “Rồi gặp ai tôi cũng thấy họ dễ thương như thể người nhà… Chẳng những mối hạnh phúc và an ủi ấy rực sáng lên trong hồn tôi, mà cả đến toàn thế giới bên ngoài dường như cũng thật diễm lệ khiến tôi ngây ngất” [21].
153. Lịch sử cũng không tan biến. Sự cầu nguyện vốn được nuôi dưỡng bằng hồng ân Thiên Chúa hằng tuôn đổ xuống đời ta, nên nó phải đầy sự tưởng nhớ. Tưởng nhớ các công trình của Thiên Chúa là nền tảng cho kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, cho nên lời cầu nguyện của ta được đan kết bằng những tưởng niệm. Không chỉ nhớ về Lời được Chúa mạc khải, mà còn về cuộc sống của bản thân ta, cuộc sống của người khác và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội thánh Ngài. Đó chính là trí nhớ đầy biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã nói đến trong bài Chiêm niệm để được Tình yêu [22], khi ngài yêu cầu ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc ta đã nhận được từ Chúa. Khi cầu nguyện, bạn hãy nhìn lại lịch sử của chính mình, bạn sẽ thấy ở đó nhiều tình thương xót. Đồng thời, điều ấy cũng giúp bạn thêm ý thức hơn rằng Chúa luôn nhớ đến bạn và không bao giờ quên bạn. Điều ấy cũng còn có nghĩa là hãy xin Chúa soi sáng lên những chi tiết nhỏ nhất của đời bạn, vì chúng không thoát khỏi mắt Ngài.
154. Khẩn nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức rằng tự sức mình ta không thể làm được gì cả. Cuộc sống của đoàn dân tin tưởng vào Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Ta đừng coi thường việc cầu xin, biết bao lần nó đã xoa dịu lòng ta và giúp ta kiên trì trong hy vọng. Lời chuyển cầu (cầu thay cho người khác) cũng có một giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, và cũng nói lên tình yêu của ta đối với người bên cạnh. Một số người, do cách nhìn phiến diện về đường thiêng liêng, cứ tưởng rằng cầu nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không được phân tâm, làm như thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy cần phải tránh xa. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của ta sẽ vui lòng Thiên Chúa hơn và giúp ta nên thánh hơn nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Lời nguyện chuyển cầu cho thấy sự quan tâm đầy tình huynh đệ đối với người khác khi chúng ta có thể bao gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu thẳm nhất của họ và những giấc mơ đẹp nhất của họ. Riêng về những người quảng đại tận hiến đời mình để chuyển cầu cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Kinh thánh mà nói: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mcb 15,14).
155. Nếu chúng ta thật sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào không thờ lạy Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân phước Charles de Foucauld khi ngài nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” [23]. Trong cuộc sống của dân Chúa trên đường lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị toát ra một sự thờ phượng thuần khiết, như khi “một người hành hương đưa mắt nhìn chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa. Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng” [24].
156. Khi cầu nguyện cũng cần đọc Lời Chúa, Lời này vừa “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv 119,103), vừa là một “thanh gươm hai lưỡi” (Hr 4,12), cho phép chúng ta dừng lại lắng nghe tiếng của Thầy để Lời ấy trở nên ngọn đèn soi bước chân ta và ánh sáng dẫn đường ta đi (x. Tv 119,105). Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “việc tôn kính Lời Chúa không đơn thuần là một trong nhiều việc sùng kính tốt đẹp, ai muốn thì làm, nhưng nó là chính con tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Tự nơi Lời Chúa vốn có sẵn quyền năng biến đổi những cuộc đời” [25].
157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Kinh thánh đưa ta đến Bí tích Thánh Thể, nơi mà cũng Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì là chính Đức Kitô tự dâng hiến chính mình để thờ phượng. Khi tiếp nhận Ngài lúc hiệp lễ, ta nhắc lại giao ước của ta với Ngài và để cho Ngài thực hiện nhiều hơn nữa công trình biến đổi của Ngài.
[1] Có một số hình thức bắt nạt, trong khi có vẻ thanh nhã hay tôn trọng và thậm chí rất tâm linh, gây ra thiệt hại lớn cho sự tự trọng của người khác.
[2] Những Đề Phòng - Precautions, 13.
[3] Ibid., 13.
[4] X. Nhật Ký Lòng Thương Xót trong Linh Hồn tôi, Stockbridge, 2000, t. 139 (300).
[5] TÔMA AQUINÔ, Tổng Lược Thần Học, I-II, q. 70, a. 3.
[6] Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng 11, 2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.
[7] Tôi đề nghị cầu nguyện bằng kinh được cho là của Thánh Tôma More: “Lạy Chúa, xin ban cho con trí lĩnh hội, và cả điều để lĩnh hội. Xin cho con thân thể khỏe mạnh, và tính hài hước tốt đẹp cần thiết để giữ sức khỏe đó. Xin cho con một linh hồn đơn sơ biết quý tất cả những gì tốt đẹp, đừng dễ dàng sợ hãi trước mặt sự dữ, nhưng biết tìm cách đặt lại mọi chuyện vào đúng chỗ của nó. Xin cho con một linh hồn không buồn chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng quá độ, vì những điều này ngăn cản một chuyện: Con chính là ‘Con’. Lạy Chúa, xin cho con một trí hài hước tốt đẹp. Xin cho con ơn có thể nói một câu đùa để tìm được chút vui vẻ trong đời, và có thể chia sẻ niềm vui đó với người khác”. (Bản dịch trích trong Conggiao.info).
[8] Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (ngày 19 tháng 3, 2016), 110: AAS 108 (2016), 354.
[9] Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng 12, 1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Điều đáng lưu ý là bản văn này của Chân Phước Phaolô VI liên kết chặt chẽ niềm vui với dũng cảm (parrhesía). Trong khi than phiền về sự “thiếu niềm vui và hy vọng” như một trở ngại cho viẽc Phúc Âm hoá, ngài đề cao “niềm vui thú vị và an ủi của việc Phúc Âm hoá”, được nối kết với “sự hăng say nội tâm mà không ai hay không gì có thể dập tắt được”. Điều này đảm bảo rằng thế gian không nhận được Tin Mừng từ “những người rao giảng Tin Mừng buồn nản [và] thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Đức Phaolô đã dành Tông Huấn Gaudete in Domino của ngài cho niềm vui (9 tháng 5, 1975): AAS 67 (1975), 289-322.
[10] Những Đề Phòng - Precautions, 15.
[11] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata (ngày 25 tháng 3, 1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[12] Tự Thú - Confessiones, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.
[13] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời nói đúng lúc, hằng ngày bảo vệ và nuôi nấng tình yêu”: Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (ngày 19 tháng 3, 2016), 133: AAS 108 (2016), 363.
[14] TÊREXA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Thảo Bản C, 29 v-30r.
[15] Các mức độ Hoàn Thiện, 2.
[16] ID., Các Lời Khuyên một Tu Sĩ làm sao để Đạt Đến Hoàn Thiện, 9.
[17] Tự Thuật - Autobiography, 8, 5.
[18] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Orientale Lumen (2 tháng 5, 1995), 16: AAS 87 (1995), 762.
[19] Gặp Gỡ các Tham Dự Viên Đại Hội Giáo Hội Ý Đại Lợi Lần Thứ Năm, Florence, (ngày 10 tháng 11, 2015): AAS 107 (2015), 1284.
[20] X. BERNARĐÔ CLAIRVAUX, Các bài gảing về sách Nhã Ca (Canticum Canticorum), 61, 3-5: PL 183:1071-1073.
[21] Con đường của một khách hành hương - The Way of a Pilgrim, New York, 1965, tt. 17, 105-106.
[22] X. Linh Thao - Spiritual Exercises, 230-237.
[23] Thư gửi Henry de Castries, 14 Tháng 8, 1901.
[24] ĐẠI HỘI THƯỜNG KỲ CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBBÊ, Tài liệu Aparecida (ngày 29 tháng 6, 2007), 259.
[25] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO ẤN ĐỘ, Tuyên Ngôn Kết Thúc Đại Hội Thường Kỳ lần Thứ Hai Mươi Mốt, ngày 18 tháng 2, 2009, 3.2.