Nhảy đến nội dung

03 Chương 3

  • T3, 28/01/2025 - 00:57
  • admin1

CHƯƠNG 3

TRONG ÁNH SÁNG CỦA THẦY CHÍ THÁNH

63. Có thể có nhiều lý thuyết về bản chất sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Những suy tư ấy có thể hữu ích, nhưng không gì có thể soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và xem cách Ngài giảng dạy chân lý. Chúa Giêsu đã giải thích hết sức giản dị về ý nghĩa của việc nên thánh khi Ngài dạy cho ta biết các mối Phúc thật (xem Mt5,3-12; Lc6,20-23). Các mối Phúc tựa như cái thẻ chứng minh của Kitô hữu. Vì vậy, nếu được hỏi: “Ta phải làm gì để là một Kitô hữu tốt?”, ta có thể trả lời ngay: Cần phải thực hành, ai theo phận nấy, điều Chúa Giêsu đã nói với ta trong Bài giảng trên núi [1]. Qua các mối Phúc, ta nhận ra chân dung của Thầy chúng ta, chân dung mà ta được mời gọi phản chiếu lại trong cuộc sống hàng ngày của mình.

64. Hai tiếng “hạnh phúc” hay “phúc thay” trở thành đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó diễn tả sự kiện ai hiến mình để sống trung thành với Thiên Chúa và Lời Ngài, sẽ đạt được hạnh phúc đích thật.

LỘI NGƯỢC DÒNG

65. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe như thi vị, nhưng rõ ràng là chúng ngược hẳn với cách mọi việc vẫn thường diễn ra trong thế giới của chúng ta. Cho dù chúng ta thấy mình được sứ điệp của Chúa Giêsu cuốn hút, thế gian vẫn đẩy chúng ta tới một cách sống khác. Các mối Phúc không hề là cái gì tầm thường hay dễ thoả mãn, mà hoàn toàn ngược lại. Ta chỉ có thể sống được các mối Phúc ấy nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức mạnh của Ngài trên ta và giải thoát ta khỏi sự yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu hãnh của mình.

66. Ta hãy lắng nghe Thầy Giêsu một lần nữa bằng tất cả tình yêu và lòng tôn kính mà Thầy đáng được. Hãy để cho những lời của Thầy chạm thẳng đến ta, thách thức ta và đòi ta phải thật sự thay đổi cách sống. Nếu không, sự thánh thiện sẽ vẫn chỉ là một từ rỗng. Nào, ta hãy quay về với từng mối Phúc một trong Tin mừng theo Thánh Matthêu (x. Mt5,3-12) [2].

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

67. Tin mừng mời ta nhìn kỹ vào tận đáy lòng mình, để xem ta đặt chỗ dựa an toàn cho đời mình ở đâu. Thường thì những người giàu cảm thấy an toàn trong của cải họ có, và nghĩ rằng, nếu của cải ấy bị đe dọa, thì toàn bộ ý nghĩa cuộc đời trần thế của họ cũng sụp đổ. Chính Chúa Giêsu nói với ta điều ấy qua dụ ngôn người phú hộ điên rồ: Ông ta tự tin lắm, nhưng thật ra rất điên rồ, vì không tính đến chuyện mình có thể chết ngay chính hôm ấy (x. Lc 12,16-21 ).

68. Sự giàu có không đảm bảo được gì cả. Thật vậy, một khi ta nghĩ mình giàu có, ta có thể trở nên tự mãn, không còn dành chỗ cho Lời Chúa, cho tình nghĩa với anh chị em mình, và cả cho việc thưởng thức những điều quan trọng nhất trong đời. Và thế là, ta bỏ lỡ mất kho báu lớn hơn tất cả mọi kho báu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó, những người có tấm lòng đơn nghèo là có phúc, vì Chúa có thể bước vào trong tấm lòng ấy với sự mới mẻ mãi mãi của Ngài.

69. Sự nghèo khó tinh thần này liên quan mật thiết đến những gì Thánh Ignatiô Loyola gọi là “sự thờ ơ thánh thiện” [Ghi chú của người dịch: Cũng có thể nói là: sự dửng dưng, sự bình tâm, sự không màng], là điều mang lại cho chúng ta một tự do nội tâm kỳ diệu: “Để được như thế, chúng ta cần đào luyện cho mình biết thờ ơ với tất cả các thụ tạo, với tất cả những gì mà ý chí tự do của mình được phép chọn và không bị cấm; ngõ hầu về phần mình, chúng ta không bận tâm với chuyện có sức khoẻ nhiều hay ít, giàu có hơn là nghèo khổ, được khen ngợi hơn là bị chê bai, sống lâu hơn là chết sớm, và tương tự như thế đối với tất cả những gì còn lại” ​​[3].

70. Thánh Luca không đề cập tới sự nghèo khó trong “tinh thần” mà chỉ đơn giản nói về những người đang “nghèo” (x. Lc 6,20). Và như thế, ngài cũng mời gọi ta sống giản dị và khắc khổ. Ngài kêu gọi ta chia sẻ với cuộc sống của những người nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông Đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng mặc dù giàu sang, nhưng “đã trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9).

Trở nên nghèo trong tinh thần: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”

71. Đây là một diễn tả mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ đầu đã từng là nơi xung đột, tranh chấp và thù hận khắp mọi phía, nơi mà ta liên tục xếp loại người khác dựa trên ý tưởng và tập tục của họ, và thậm chí còn dựa trên cách nói năng hoặc ăn mặc của họ. Cuối cùng, đó là vương triều của kiêu hãnh và hư danh, nơi mà mỗi người đều nghĩ mình có quyền đè bẹp người khác. Tuy nhiên, dù có vẻ không khả thi, Chúa Giêsu lại đề nghị một đường lối khác: đường lối hiền lành. Đó là đường lối ta đã thấy Ngài xử sự với các môn đệ của Ngài. Đó là điều ta chiêm ngắm khi Ngài vào Giêrusalem: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5, x. Dc9,9).

72. Đức Kitô nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Nếu ta luôn bực tức và mất kiên nhẫn với người khác, ta sẽ mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng nếu ta nhìn vào những lỗi lầm và giới hạn của người khác với sự dịu dàng và hiền lành, không tỏ ra mình hơn họ, ta có thể thật sự giúp đỡ họ và ngừng phí phạm sức lực của mình trong việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành Lisieux nói với ta rằng “Đức ái hoàn hảo hệ tại việc dung thứ lầm lỗi của người khác, và không ngạc nhiên vì những yếu đuối của họ” [4].

73. Thánh Phaolô nói về sự hiền lành như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,23). Ngài đề nghị rằng, nếu có khi nào ta nặng lòng vì một hành vi sai trái của một anh chị em nào đó của mình, thì ta nên cố gắng sửa sai họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, vì chính ta “cũng có thể bị cám dỗ” (Ga 6,1). Ngay cả khi bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, ta cũng phải làm thế “cách hiền hòa” (x. 1 Pr 3,16). Cả với những kẻ chống báng, ta cũng phải đối xử “cách hiền hòa” (2 Tm 2,25). Trong Hội thánh, biết bao lần ta đã sai lầm vì không chịu đón nhận đòi hỏi ấy của Lời Chúa.

74. Sự hiền lành là một cách diễn tả khác về tinh thần nghèo khó nội tâm của những người chỉ tin cậy nơi một mình Thiên Chúa. Quả thực, trong Kinh thánh người ta thường dùng cùng một từ - anawim – để nói về cả người nghèo và người hiền lành. Một số người có thể phản đối: “Nếu tôi quá hiền lành, người ta sẽ nghĩ là tôi ngốc, tôi khùng hoặc nhu nhược”. Chuyện ấy có thể xảy ra, nhưng hãy để mặc kẻ khác nghĩ như thế. Phần ta, tốt hơn, cứ luôn luôn hiền lành, rồi những ước muốn sâu xa của ta sẽ thành tựu. Người hiền lành “sẽ được đất làm gia nghiệp”, họ sẽ thấy những lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành ngay trong đời họ. Dù trong hoàn cảnh nào, người hiền lành vẫn đặt niềm hy vọng vào Chúa, và những ai hy vọng vào Ngài sẽ được đất ... và tận hưởng sự bình an trọn vẹn (x. Tv 37,9,11). Đồng thời Chúa cũng tin tưởng nơi họ: “Kẻ được Ta đoái nhìn: đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ” (Is 66,2).

Phản ứng với lòng hiền lành và khiêm nhường: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”.

75. Thế gian đề nghị với ta điều ngược hẳn lại: giải trí, giải khuây, vui chơi và tiêu khiển rồi bảo ta rằng những điều ấy làm cho cuộc sống được tốt đẹp. Người thuộc về thế gian phớt lờ, quay mắt không nhìn những vấn đề đau ốm hay buồn phiền trong gia đình hoặc chung quanh. Thế gian không muốn khóc lóc; họ muốn làm ngơ trước những cảnh đau đớn, muốn che đậy hoặc giấu đi. Người ta tốn nhiều công sức để chạy trốn những tình trạng đau khổ, tự cho rằng có thể che giấu được thực tại. Thế nhưng làm sao tránh khỏi thập giá?

76. Người biết nhìn mọi sự đúng theo thực tế của chúng, biết để cho khổ đau và than khóc xuyên thấu cõi lòng, sẽ có khả năng chạm đến những gì sâu thẳm nhất của cuộc đời và gặp được hạnh phúc đích thực [5]. Họ được an ủi, không phải bởi thế gian mà bởi Chúa Giêsu. Và như thế họ có can đảm chia sẻ nỗi khổ của người khác và không còn chạy trốn những hoàn cảnh đau thương. Nhờ đó, họ nhận ra cuộc đời này thật ý nghĩa khi biết giúp đỡ những người đang đau khổ, biết cảm thông với những người đang âu lo phiền muộn, biết cứu giúp tha nhân. Họ cảm nhận rằng người khác là xương là thịt của mình, và không sợ lại gần, thậm chí còn sờ vào những vết thương của người ấy. Họ thấy cảm thương cho người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều biến mất. Và như thế, họ có thể thấu triệt lời khuyên của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với những kẻ khóc” (Rm 12,15).

Biết cách cùng than khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”.

[Ghi chú của người dịch: Ở đây, cả tiếng Pháp và tiếng Anh đều cùng một từ là “justice” nhưng bên tiếng Việt tùy trường hợp sẽ được dịch là “công bằng”/ hay “công bình” (khi trao đổi hoặc phân chia: của ai trả nấy, mỗi người phải nhận được đúng phần của mình), “ công lý” (=lẽ công bằng = công bằng trước pháp luật: phần ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu) hoặc “công chính” (về xã hội tôn giáo: người không vướng mắc tội ác hoặc lỗi lầm nào). Cũng có những chỗ khó phân biệt rõ, sẽ được dịch là “công lý”, xin độc giả lưu ý để dễ hiểu theo từng trường hợp.]

77. Đói và khát là những cảm nghiệm mãnh liệt, dội lại từ những nhu cầu cốt yếu và bản năng sống còn của ta. Có những người ao ước công lý và khao khát sự công chính cách mãnh liệt như thế. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ được no thoả, vì sớm hay muộn, công lý sẽ đến. Ta có thể cùng góp phần làm cho công lý mau đến, cho dù chẳng phải lúc nào ta cũng được nhìn thấy hoa quả các nỗ lực của mình.

78. Công lý Chúa Giêsu nêu lên khác với thứ công lý của thế gian, thường bị những quyền lợi nhỏ nhen làm vẩn đục và bị người ta lèo lái cách này cách khác. Thực tế cho thấy thứ công lý này rất dễ bị sa lầy trong tham nhũng, bị vướng vào cái khôn khéo có đi có lại (quid pro quo) thường ngày, mọi sự đều thành mua bán đổi chác. Bao nhiêu người hứng chịu bất công, bất lực đứng bên lề đang khi những người khác chia nhau những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Lắm người buông xuôi, thôi chiến đấu cho công lý đích thật và chọn nhảy lên đoàn tàu của kẻ chiến thắng. Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Chúa Giêsu ca tụng.

79. Công lý đích thực là chuyện trong đời thường của dân chúng khi chính họ thể hiện công bình trong các quyết định của họ; công lý đích thực cũng được hiểu là việc theo đuổi công lý cho những người nghèo và người cô thế. Đành rằng “công chính” (công lý) có thể là một từ đồng nghĩa với việc trung thành với Thánh Ý của Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống mình, nhưng đừng vì ý nghĩa quá tổng quát ấy, mà quên rằng công lý còn được dùng riêng để chỉ lẽ công bình đối với những người dễ bị tổn thương nhất: “Hãy tìm kiếm lẽ công bình, hãy sửa phạt người áp bức; xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17).

Khát khao lẽ công bình: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai xót thương người,vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.

80. Thương xót có hai khía cạnh. Một bên nhấn mạnh tới sự trao tặng (cho), giúp đỡ và phục vụ người khác, và một bên nhấn mạnh sự tha thứ và cảm thông. Thánh Matthêu tóm lược điều ấy vào một luật vàng: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12). Sách Giáo lý nhắc ta nhớ rằng luật này được áp dụng “trong mọi trường hợp” [6], đặc biệt là khi chúng ta “đối diện với những tình huống khiến các phán đoán về luân lý không được chắc chắn và khó quyết định” [7].

81. Cho và tha thứ chính là cố gắng thể hiện lại nơi đời ta một mức cỏn con về sự hoàn thiện của Thiên Chúa, Đấng cho và tha thứ nhiều vô cùng vô tận. Vì lý do ấy, trong Tin mừng Thánh Luca, ta không nghe dạy “Hãy nên hoàn thiện” (Mt 5,48), nhưng thay vào đó là: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.” (Lc 6,36-38). Tiếp đó, Thánh Luca thêm một điều mà ta không được bỏ qua: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Tiêu chuẩn mà ta dùng để hiểu và tha thứ cho người khác sẽ được dùng để đong sự tha thứ dành cho ta. Tiêu chuẩn ta dùng để cho sẽ được dùng để đong những gì ta nhận lại. Ta không bao giờ được quên điều ấy.

82. Chúa Giêsu không nói, “Phúc cho những kẻ tìm cách báo thù”. Ngài gọi những người tha thứ và tha thứ “bảy mươi lần bảy lần” (Mt 18,22) là những người “được chúc phúc”. Chúng ta chẳng khác nào một đạo quân những người được tha thứ. Tất cả chúng ta đã được đoái nhìn với lòng từ bi của Thiên Chúa. Nếu ta thật lòng đến gần Chúa và chăm chú lắng nghe, có thể lắm lúc ta cũng nghe được lời Ngài quở trách: “Vậy ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,33).

Thấy và hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.

83. Mối Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh sạch và không ô uế, vì một con tim biết yêu không chấp nhận những gì có thể làm hại, làm suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Kinh thánh sử dụng trái tim để mô tả những ý định thật sự của chúng ta, những điều chúng ta thật sự tìm kiếm và mong muốn, vượt xa tất cả những vẻ bề ngoài. “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với cõi lòng của ta (x. Hs 2,16); ở đó Ngài muốn ghi Lề Luật của Ngài (x. Gr 31,33). Nói cách khác, Ngài muốn cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26,26).

84. “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Không có gì bị sự giả dối vấy bẩn mà có được giá trị thật sự trong mắt Chúa. Ngài “tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín ẩn” (Mt 6,6), nhận ra điều gì thiếu tinh khiết và không chân thành, mà chỉ nặng phần trình diễn hay có vẻ bề ngoài; Chúa Con cũng thế, Ngài là Đấng biết “có gì trong lòng con người” (x. Ga 2,25).

85. Chắc hẳn không thể có tình yêu mà không có những nghĩa cử yêu thương, nhưng Mối phúc này nhắc ta nhớ rằng Chúa đòi hỏi sự quên mình phục vụ anh chị em mình phải đến từ con tim. Vì “giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, ta còn thấy rằng cũng từ con tim phát xuất những điều khiến người ta thành ô uế (x. 15,18), vì từ con tim phát ra những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng dối, và những việc làm gian ác khác (x. 15,19). Từ những ý định của con tim phát sinh những ham muốn và những quyết định sâu xa nhất định đoạt các hành động của ta.

86. Một con tim thật sự yêu mến Thiên Chúa và người bên cạnh (x. Mt 22,36-40), chứ không chỉ nói suông, là một con tim trong sạch; nó có thể thấy Thiên Chúa. Trong bài ca đức ái, Thánh Phaolô nói rằng “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương” (1 Cr 13,12), nhưng sự thật và tình yêu càng thắng thế, ta càng có thể nhìn thấy “tận mắt”. Chúa Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ thấy Thiên Chúa”.

Giữ cho lòng mình khỏi vướng tất cả những gì làm cho tình yêu hoen ố: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

87. Nhắc tới mối Phúc này, ta thấy nặng lòng vì những hoàn cảnh không ngừng đưa tới chiến tranh trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn lại bản thân chúng ta vẫn thường là nguyên nhân tạo nên xung đột hoặc ít ra là hiểu lầm. Thí dụ, tôi nghe được một điều gì về một người nào đó và tôi ra ngoài kể lại cho người khác. Thậm chí có thể tôi còn thêm mắm thêm muối thành một câu chuyện mới rồi tiếp tục loan truyền nó ... Và hình như câu chuyện càng gây thêm tai hại, tôi càng hài lòng về nó. Thế giới của những tin đồn, bị những kẻ tiêu cực và phá hoại chiếm đóng, không mang lại hòa bình. Những kẻ như vậy thật đúng là kẻ thù của hòa bình; họ không sao “được chúc phúc” [8].

88. Những người kiến tạo hòa bình là nguồn bình an; họ xây dựng hòa bình và tình bạn trong xã hội. Đối với những người gieo vãi hòa bình, Chúa Giêsu đã hứa cho họ một ơn kỳ diệu: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Ngài đã dặn các môn đệ rằng, hễ vào bất cứ nhà nào cũng đều nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10,5). Lời Chúa khuyến khích mọi tín hữu đều phải mưu tìm hoà bình “cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2 Tm 2,22). “Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.” (Gc 3,18). Và nếu có lúc nào ta phân vân tự hỏi phải làm gì trong cộng đồng, thì “ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì hiệp nhất đáng ưa chuộng hơn là xung đột [9].

89. Để “tạo ra” thứ hòa bình theo Tin mừng này không dễ, vì đây là thứ hoà bình không loại trừ ai, nhưng bao gồm cả những người hơi kỳ cục, gây phiền toái phức tạp, cả những người ưa đòi hỏi, lập dị, bị bầm dập vì cuộc sống hoặc chỉ là những kẻ bất cần đời. Đó là việc rất khó, đòi phải mở rộng cả tâm và trí, bởi vì nó không phải là việc lập ra một “sự đồng thuận trên giấy tờ hoặc một hòa bình tạm bợ vừa ý một nhóm nhỏ” [10], cũng không phải là một dự phóng “của một ít người hướng tới một ít người” [11]. Nó cũng không cố lờ đi hoặc xí xóa các xung đột; trái lại, nó phải “đối diện trực tiếp với xung đột, giải quyết nó và làm cho nó thành một mắt xích trong dây chuyền của một tiến trình mới” [12]. Nó đòi phải có những người xây dựng hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghệ thuật đòi hỏi sự bình thản, sáng tạo, nhạy cảm và kỹ năng.

Gieo vãi hoà bình quanh chúng ta: đó là sự thánh thiện.

“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.

90. Chính Chúa Giêsu cảnh báo ta rằng đây là con đường lội ngược dòng đời, thậm chí biến ta thành những kẻ dám lấy cách sống của mình để thách đố xã hội, và kết quả là trở thành những kẻ gây phiền toái. Ngài nhắc ta nhớ đến biết bao người đã và đang bị bách hại chỉ vì đấu tranh cho công lý, vì dám sống đúng theo trách nhiệm đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu ta đã không muốn chìm vào cái tầm thường tăm tối, thì đừng theo đuổi một cuộc sống dễ dàng, bởi lẽ “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).

91. Khi sống Tin mừng, ta không thể mong đợi mọi sự sẽ thuận lợi, bởi vì những tham vọng quyền lực và lợi ích thế tục thường chống lại ta. Thánh Gioan Phaolô II đã lưu ý rằng “Một xã hội mà trong đó các hình thức tổ chức, sản xuất và tiêu thụ, đều gây khó khăn cho việc quên mình để xây dựng tình liên đới giữa con người, thì đã hoàn toàn đánh mất chính mình” [13]. Trong một xã hội đánh mất chính mình như vậy, sự rối mù về chính trị, truyền thông, kinh tế, văn hoá và thậm chí cả tôn giáo nữa….  trở thành một trở ngại không cho con người và xã hội được phát triển đích thực. Kết quả là người ta khó mà sống các mối Phúc thật; bất cứ nỗ lực nào nhằm sống như thế đều bị nhìn một cách tiêu cực, bị ngờ vực và nhạo báng.

92. Dù ta có vất vả và đau đớn đến đâu khi sống giới luật yêu thương và đi theo con đường công lý, Thánh giá vẫn là nguồn mạch giúp ta trưởng thành và nên thánh. Chúng ta không bao giờ được quên rằng khi Tân ước nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ phải chịu đau khổ vì Tin mừng, là nói rõ về những cuộc bách hại (x. Cv5,41, Pl1,29, Cl1,24, 2 Tm1,12, 1 Pr2,20, 4,14-16, Kh2,10).

93. Nhưng ở đây chúng ta nói về những cuộc bách hại không thể tránh được, chứ không phải loại bách hại mà chúng ta có thể tự gây ra cho mình khi đối xử với những người khác một cách tồi tệ. Các thánh không phải là những người kỳ quặc, xa cách, mà không ai chịu nổi vì sự hợm mình, sự tiêu cực và sự cay đắng của họ. Các Tông đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách Công vụ các Tông đồ lặp đi lặp lại rằng các ngài được lòng “tất cả mọi người” (2,47; x. 4,21.33;5,13), ngay cả khi một số nhà cầm quyền đã sách nhiễu và bách hại các ngài (xem 4,1-3;5,17-18).

94. Những cuộc bách hại không phải là chuyện quá khứ, vì ngày nay chúng ta vẫn đang trải nghiệm, cho dù bằng cách đổ máu, như biết bao vị tử vì đạo hiện nay, hoặc bằng những phương cách tế nhị hơn, bằng vu khống và lừa dối. Chúa Giêsu bảo rằng chúng ta có phúc khi người ta “vu khống cho anh em đủ điều xấu xa vì Thầy” (Mt5,11). Lắm lúc, nó có thể mang hình thức những sự chế nhạo cố gắng châm biếm đức tin của ta và biến ta thành ra có vẻ lố bịch.

Chấp nhận hàng ngày con đường Tin mừng, dù nó có thể gây khó khăn cho chúng ta: đó là thánh thiện.

TIÊU CHUẨN LỚN

95. Trong chương hai mươi lăm của Tin mừng Thánh Matthêu (câu 31-46), Chúa Giêsu nói rộng thêm về mối Phúc tuyên bố những người có lòng thương xót là có phúc. Thương xót chính là sự thánh thiện làm đẹp mắt Thiên Chúa, và đoạn văn này nêu cao cái chuẩn mực rõ ràng Chúa sẽ dựa trên đó mà xét xử ta. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;  Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”(các câu 35-36).

Trong sự trung thành với Thầy

96. Như thế, nên thánh không có nghĩa là mê mẩn trong trạng thái xuất thần huyền bí. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Nếu chúng ta thật sự xuất phát lại từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, chúng ta phải học cách nhìn thấy Ngài đặc biệt là trên khuôn mặt những kẻ mà chính Ngài muốn tự đồng hoá mình với họ” [14]. Đoạn văn Matthêu 25,35-36 “không phải chỉ giản dị mời gọi sống đức ái: đó còn là một trang Kitô học đang chiếu một tia sáng lên mầu nhiệm Đức Kitô” [15]. Khi kêu gọi ta nhận ra Ngài nơi những người nghèo và đau khổ ấy, chính Thánh Tâm Đức Kitô tỏ cho ta thấy những cảm xúc và sự chọn lựa sâu thẳm nhất của Ngài, mà mỗi vị thánh tìm cách noi gương.

97. Vì những đòi hỏi ấy của Chúa Giêsu rất quyết liệt, tôi có nhiệm vụ phải yêu cầu các Kitô hữu thừa nhận và chấp nhận chúng với một tinh thần hết sức cởi mở, sine glossa, tức là không nêu một chữ “nếu”, chữ “nhưng” nào có thể làm giảm sức mạnh của chúng. Chúa chúng ta đã nói rất rõ rằng sự thánh thiện không thể hiểu hay sống ngoài những đòi hỏi ấy, vì lòng thương xót là “con tim đang đập của Tin mừng” [16].

98.Gặp một người ngủ ngoài trời giữa một đêm lạnh lẽo, tôi có thể coi người ấy như một điều phiền nhiễu, quấy rầy, trở ngại trên đường của tôi, một cảnh tượng phiền toái, một vấn đề để cho các chính trị gia giải quyết, hoặc thậm chí một đống rác bừa bãi nơi công cộng. Hoặc tôi đáp lại với đức tin và đức ái, thấy nơi người ấy một con người có cùng một phẩm giá như tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Chúa Giêsu cứu chuộc. Thế mới là Kitô hữu! Nếu không nhìn nhận cách sống động về phẩm giá của mỗi con người như thế liệu sự thánh thiện còn có ý nghĩa gì chăng? [17].

99. Đối với các Kitô hữu, điều này ấp ủ một thao thức lành mạnh và khôn nguôi. Dù rằng chỉ an ủi nâng đỡ được một người thôi cũng đã đáng với tất cả những cố gắng của ta, nhưng như thế chưa đủ. Các giám mục Canađa đã làm sáng tỏ điều ấy khi các ngài nhấn mạnh, chẳng hạn qua giáo huấn Kinh thánh về Năm thánh, rằng vấn đề không chỉ làm cho xong một số việc lành nhưng còn phải tìm cách thay đổi xã hội: “Để cho các thế hệ sau này cũng được giải thoát, rõ ràng mục tiêu phải là khôi phục lại các hệ thống công bằng về xã hội và kinh tế, để không còn ai bị loại trừ nữa” [18].

Những cách suy nghĩ xô lệch trọng tâm của Tin mừng

100. Tôi tiếc rằng đôi khi có những cách suy nghĩ dẫn chúng ta đến hai sai lầm nguy hại. Một đàng, là cái sai lầm của những Kitô hữu tách hẳn những đòi hỏi ấy của Tin mừng ra khỏi mối liên hệ của bản thân từng người với Chúa, ra khỏi sự kết hợp nội tâm của họ với Ngài, ra khỏi sự mở lòng ra cho ân sủng. Như thế, Kitô giáo trở thành một loại tổ chức từ thiện phi chính phủ (NGO), bị tước mất chiều kích thần bí sáng ngời được chứng tỏ trong đời sống của Thánh Phanxicô thành Assisi, Thánh Vincentê đệ Phaolô, Thánh Têrêxa thành Calcutta và nhiều vị thánh khác. Đối với những vị thánh lớn này, việc nguyện ngắm, việc yêu Chúa và việc đọc Tin mừng không hề làm giảm bớt sự dấn thân nồng nhiệt và hữu hiệu dành cho những người bên cạnh mình,  hoàn toàn ngược lại là khác.

101. Cách suy nghĩ sai lầm và nguy hại khác là của những kẻ hoài nghi việc dấn thân vào xã hội của người khác, coi đó như là chuyện hời hợt, phàm tục, trần thế, vật chất, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối hoá nó, như thể là còn có những vấn đề khác quan trọng hơn, hoặc như thể chỉ có điều duy nhất đáng kể là vấn đề đạo đức cụ thể nào đó hoặc một vụ việc nào đó mà họ đang bảo vệ. Chẳng hạn như, việc bảo vệ các trẻ em vô tội chưa sinh ra của chúng ta cần phải dứt khoát rõ ràng, chắc chắn và say mê, vì chạm thẳng đến phẩm giá của một sự sống con người, là điều luôn thánh thiêng và đến lòng yêu quý phải dành cho mỗi ngôi vị con người, không kể con người ấy phát triển tới giai đoạn nào. Tuy nhiên, cả sự sống của những người đã được sinh ra cũng thánh thiêng không kém, như sự sống của những người nghèo, những người bị bỏ rơi và bị thiệt thòi, những người khuyết tật dễ bị tổn thương, những người già cả dễ làm mồi cho việc giết chết êm dịu khéo che đậy, những nạn nhân của nạn buôn người, những hình thức nô lệ mới và mọi hình thức loại trừ [19]. Chúng ta không thể chủ trương một lý tưởng về thánh thiện không bận tâm gì đến những bất công trong một thế giới mà một số người vui vẻ ăn uống say sưa, chi tiêu bừa bãi và sống chỉ để hưởng những món hàng tiêu thụ mới nhất, đang khi những người khác chỉ nhìn từ bên ngoài, và sống lây lất suốt đời trong nghèo đói thê thảm.

102. Ta thường nghe nói rằng, đem so với thuyết tương đối và những sai lỗi nơi thế giới hiện tại của  ta, thì tình trạng di dân chẳng hạn, chỉ là một vấn đề thứ yếu. Một số người Công giáo coi đó là đề tài phụ so với những vấn đề về sinh học “nghiêm trọng”. Một chính trị gia đang kiếm phiếu phát biểu như thế thì có thể hiểu được, nhưng một Kitô hữu thì không, vì thái độ đúng đắn duy nhất là đứng vào vị trí của các anh chị em chúng ta, những người liều mất cả mạng sống để bảo đảm cho con cái mình có được một tương lai. Liệu ta có thể không nhận ra rằng đây chính là điều Chúa Giêsu đòi hỏi ta, khi Ngài bảo rằng mỗi lần ta đón tiếp khách lạ là  đón tiếp Ngài chăng (x. Mt 25,35)? Thánh Bênêđictô đã chấp nhận điều ấy không chút dè dặt, cho dù nó có thể khiến cuộc sống của các tu sĩ thành “phức tạp”, ngài đã ra lệnh rằng tất cả các khách gõ cửa tu viện đều phải được đón tiếp “như Đức Kitô” [20], với một cử chỉ tôn kính[21]; người nghèo và người hành hương phải được cư xử với “sự chăm sóc ân cần nhất” [22].

103. Cựu ước cũng dạy tương tự  như thế: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. ” (Xh 22,20). “Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,33-34). Đó không phải là một khái niệm được một số Giáo hoàng phát minh, hoặc một mốt nhất thời ngắn ngủi. Cũng trong thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi đi theo nẻo đường tâm linh khôn ngoan mà ngôn sứ Isaia đề ra để cho thấy điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).

Sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa nhất

104. Ta có thể nghĩ rằng chỉ cần làm việc thờ phượng và cầu nguyện là đã tôn vinh Thiên Chúa, hoặc chỉ cần tuân giữ một số quy tắc đạo đức nào đó là đã đủ. Đúng là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa vẫn ưu tiên hơn, thế nhưng ta không thể quên rằng tiêu chuẩn cuối cùng Chúa sẽ dựa vào để xét xử đời ta là những gì ta đã làm cho người khác. Cầu nguyện là điều quý giá nhất, vì nó giúp ta trung thành dấn thân sống yêu thương mỗi ngày. Việc thờ phượng của ta đẹp lòng Thiên Chúa khi ta tự nguyện sống hào hiệp, biết để cho món quà Thiên Chúa ban cho ta trong cầu nguyện biến bản thân ta thành món quà cho anh chị em mình.

105. Tương tự như thế, cách phân định tốt nhất để biết được lời cầu nguyện của ta có chân thực hay chăng là xét xem cuộc sống ta có đang được biến đổi trong ánh sáng của lòng thương xót hay chăng. Thật vậy, “lòng thương xót không chỉ là hành động của Chúa Cha; mà còn trở thành một tiêu chuẩn để biết được ai là con cái thật của Ngài” [23]. Lòng thương xót “chính là nền tảng của đời sống của Hội thánh” [24]. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng lòng thương xót không loại trừ công bằng và sự thật; quả thực “chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự tròn đầy của đức công chính và là biểu lộ rực rỡ nhất về sự thật của Thiên Chúa” [25]. Đó là “chìa khóa Thiên Đàng” [26].

106. Ở đây, tôi nhớ đến câu hỏi Thánh Tôma Aquinô đã nêu ra khi xét xem nơi những hành động của ta đâu là những hành động cao quý nhất, đâu là những việc làm bề ngoài cho thấy rõ nhất là ta yêu mến Thiên Chúa. Thánh Tôma đã không ngần ngại trả lời rằng đó là những việc thương xót đối với người bên cạnh chúng ta [27], thậm chí còn hơn cả các hành vi thờ phượng của ta: “Ta thờ phượng Thiên Chúa bằng những hy sinh và của lễ bên ngoài, không nhắm lợi ích gì cho Ngài, nhưng chỉ vì lợi ích của chính chúng ta và những người bên cạnh chúng ta. Vì Ngài không cần những hy lễ của ta, nhưng muốn chúng được dâng lên Ngài, để khơi dậy lòng sùng kính của ta và sinh ích cho những người bên cạnh ta. Vì thế, lòng thương xót đã khiến ta chu cấp cho những nhu cầu của người khác, là một sự hy sinh dễ được Chúa vui nhận hơn cả, vì trực tiếp hướng đến hạnh phúc của những người bên cạnh chúng ta hơn” [28].

107. Những người thực sự muốn làm vinh danh Thiên Chúa bằng cuộc sống mình, những người thực sự ao ước thánh hóa bản thân để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Thánh, được mời gọi bền tâm vững chí thực hành các việc thương xót. Thánh Têrêxa thành Calcutta đã ý thức điều ấy rất rõ: “Vâng, tôi có nhiều yếu đuối lỗi lầm và khốn cùng của phận người ... Nhưng Thiên Chúa cúi xuống và dùng chúng ta, bạn và tôi, để chúng ta trở thành tình yêu và lòng thương xót của Ngài trên thế gian; Ngài gánh lấy tội lỗi ta, những khó khăn và lỗi lầm của ta. Ngài lệ thuộc vào ta để yêu thế gian và để cho thế gian thấy Ngài yêu nó đến mức nào. Nếu ta quá bận tâm đến bản thân mình, ta sẽ không còn thời giờ cho người khác nữa” [29].

108. Chủ nghĩa hưởng thụ và tiêu thụ có thể quật ngược lại ta, bởi vì khi ta bị ám ảnh lo cho khoái cảm riêng của mình, ta sẽ trở nên quá quan tâm đến bản thân và các quyền lợi của mình, và ta cảm thấy bức bách phải có thời giờ rảnh rỗi để vui hưởng. Ta sẽ thấy khó mà đồng cảm, khó mà thực sự quan tâm tới những kẻ túng cùng, nếu ta không biết tự vun trồng lấy một chút giản dị cho cuộc sống, chống lại cơn sốt nhu cầu mà xã hội tiêu thụ đang đè nặng lên ta, đang biến ta thành nghèo nàn và bị ức chế, bồn chồn muốn có ngay tất cả và thử hết mọi thứ ngay bây giờ. Tương tự như thế, khi ta để mình bị cuốn vào những tin tức hời hợt, truyền thông chớp nhoáng và thực tế ảo, ta có thể lãng phí hết thời giờ quý báu và trở nên thờ ơ với những vết thương của anh chị em mình. Tuy nhiên, ngay cả giữa cơn lốc náo hoạt ấy, Tin mừng vẫn tiếp tục vang lên, đề ra cho ta lời hứa hẹn một cuộc sống khác, một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc hơn.

109. Sức mạnh nơi chứng từ của các thánh là tuân giữ các mối Phúc thật và chuẩn mực của cuộc phán xét cuối cùng. Chúa Giêsu chỉ nói mấy lời đơn giản nhưng rất thiết thực và có giá trị đối với hết mọi người, vì trên tất cả mọi sự, Kitô giáo chính yếu là để đem ra thực hành. Nó cũng có thể là một đối tượng nghiên cứu và suy niệm, nhưng điều này chỉ có giá trị khi giúp ta sống Tin mừng tốt hơn trong cuộc sống hàng ngày của mình. Tôi đề nghị mọi người đọc lại những đoạn văn Kinh thánh quan trọng ấy, thảo luận về chúng, cầu nguyện với chúng, cố gắng biến chúng thành sự sống. Chúng sẽ có ích cho ta; chúng sẽ làm cho ta được thực sự hạnh phúc.

[1] X. Bài Giảng trong Thánh Lễ ở Casa Santa Marta, ngày 9 tháng 6, 2014: L’Osservatore Romano, 10 Tháng 6, 2014, t. 8.

[2] Thứ tự của Mối Phúc thứ hai và thứ ba thay đổi tuỳ theo truyền thống văn bản.

[3] Linh Thao - Spiritual Exercises, 23d.

[4] Thảo Bản - Manuscript C, 12r.

[5] Từ thời các giáo phụ, Hội Thánh đã tôn trọng ơn khóc lóc, như được thấy trong kinh “Ad petendam compunctionem cordis”. Được đọc thế này: “Lạy Thiên Chúa Toàn Năng và rất hay thương xót, Đấng đã làm vọt ra nước hằng sống từ tảng đá cho dân đang khát nước của Chúa: xin làm chảy ra nước mắt và lòng thống hối từ sự cứng lòng của chúng con, để chúng con đau buồn vì tội lỗi mình, và nhờ lượng từ bi Chúa, chúng con được tha thứ” (X. Missale Romanum, ed. typ. 1962, t. [110]).

[6] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1789; X. 1970.

[7] Ibid., 1787.

[8] Gièm pha và nói hành là những hành động khủng bố: một quả bom được tung ra, nó nổ, và kẻ tấn công bình thản và hài lòng bỏ đi. Điều này hoàn toàn khác với sự cao quý của những người nói với người khác giáp mặt, chân thành và thẳng thắn, vì thật sự quan tâm đến sự tốt lành của người ấy.

[9] Đôi khi, có thể cần phải nói về những khó khăn cùa một anh chị em nào đó. Trong những trường hợp như thế, điều có thể xảy ra là người ta truyền lại một cắt nghĩa thay vì một dữ kiện khách quan. Tình cảm có thể làm cho hiểu sai hay thay đổi các dữ kiện, và cuối cùng nó được chuyền đi và được pha thêm với những yếu tố chủ quan. Bằng cách này, chính các dữ kiện hoặc sự thật không được tôn trọng.

[10] Tông Huấn, Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng 11, 2013), 218: AAS 105 (2013), 1110.

[11] Ibid., 239: 1116.

[12] Ibid., 227: 1112.

[13] Thông Điệp Centesimus Annus (ngày 1 tháng 5, 1991), 41c: AAS 81 (1993), 844-845.

[14] Tông Thư Novo Millennio Ineunte (ngày 6 tháng 1, 2001), 49: AAS 93 (2001), 302.

[15] Ibid.

[16] Tự Sắc Misericordiae Vultus (ngày 11 tháng 4, 2015), 12: AAS 107 (2015), 407.

[17] Chúng ta có thể nhớ lại phản ứng của người Samaritanô nhân từ khi gặp người bị cướp tấn công và bỏ cho chết (X. Lc 10,30-37).

[18] UỶ BAN XÃ HỘI CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO CANAĐA, Thư Ngỏ gửi các Thành Viên Quốc Hội, Công Ích hay Loại Trừ: Một Chọn Lựa cho người Canađa (ngày 1 tháng 2, 2001), 9.

[19] Đại Hội Thường Kỳ của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribbê, khi vang vọng lại giáo huấn cố hữu của Hôi Thánh, đã nói rằng con người “luôn luôn thánh thiêng, từ lúc thụ thai, ở tất cả các giai đoạn của cuộc sống, cho đến khi chết tự nhiên, và sau khi chết”, và cuộc sống ấy phải được bảo vệ “bắt đầu từ khi thụ thai, trong mọi giai đoạn của nó, cho đến lúc chết tự nhiên” (Tái liệu Aparecida, ngày 29 tháng 6, 2007, 388; 464).

[20] Quy Luật, 53, 1: PL 66, 749.

[21] X. ibid., 53, 7: PL 66, 750.

[22] Ibid., 53, 15: PL 66, 751.

[23] Tự Sắc Misericordiae Vultus (ngày 11 tháng 4, 2015), 9: AAS 107 (2015), 405.

[24] Ibid., 10, 406.

[25] Tông Huấn Hậu Thương Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (ngày 19 tháng 3, 2016), 311: AAS 108 (2016), 439.

[26] Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng 11, 2013), 197: AAS 105 (2013), 1103.

[27] X. Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4.

[28] Ibid., ad 1.

[29] Được trích (trong bản dịch Tây Ban Nha) trong: Cristo en los Pobres, Madrid, 1981, 37-38.