11 Bài 11
NHỮNG NƠI HÀNH HƯƠNG KÍNH MẸ
Đức Mẹ Lộ Đức
Lộ Đức (Lourdes) là một tỉnh nhỏ khoảng 6.000 dân nằm giữa thung lũng Pyrênê, gần sông Gave, nước Pháp. Hôm ấy là ngày 11-2-1858. Trời lạnh lẽo. Vào buổi trưa, Bernadette, cô gái 14 tuổi vui tươi, nhà nghèo và quê mùa, cùng với hai người bạn đi lượm củi khô ở bờ suối Gave.
Bỗng một thiếu phụ xinh đẹp mặc đồ trắng hiện ra với cô, trên một tảng đá bao quát cả hang Massabielle. Vừa sợ lại vừa vui, cô lần chuỗi và không dám tới gần theo lời Bà mời.
Chẳng ai muốn tin cô. Cha mẹ cô không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó, cô trở lại hang đá. Các cuộc thị kiến vẫn tiếp diễn. Bà lạ nói chuyện và kêu gọi cầu nguyện, rước kiệu và xây dựng một đền thờ tại đây.
Các bậc khôn ngoan chống đối. Dân chúng lại xúc động. Công an thẩm vấn Bernadette. Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe doạ. Cô cũng không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng bất bình. Thế nhưng Bernadette vẫn khiêm tốn và lịch sự.
Ngày 25-2, một đoàn người cảm kích theo cô. Sau khi cầu nguyện, Bernadette đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi quỳ xuống. Theo lệnh Bà lạ, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt lên. Cứ 24 tiếng đồng hồ là có khoảng 120.000 lít nước chảy ra.
Ông biện lý cho gọi Bernadette tới. Ông chế giễu, tranh luận và đe doạ cô nữa. Cuối cùng ông kết luận: Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ?
Nhưng Bernadette bình tĩnh trả lời cách rõ ràng: Thưa ông, cháu không hứa như vậy.
Cha sở lo âu, ngài cấm các tín hữu không được tới hang. Bernadette tới gặp ngài và nói: Bà lạ nói: Ta muốn người ta rước kiệu tới đây.
Ngài liền quở trách và gằn từng tiếng: Con hãy nói với Bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ Đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à? Trước hết, Bà phải cho biết tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.
Làm xong nhiệm vụ, Bernadette bình thản ra về.
Đã có những phép lạ nhãn tiền: một người thợ đẽo đá mù loà đã thấy được ánh sáng, một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục, báo chí công kích dữ dội và cho rằng: đó chỉ là ảo tưởng.
Nhưng dòng nước vẫn chảy thành suối. Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước. Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ. Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho nó một cái quách. Người cha thở dài: Nó chết rồi.
Người mẹ trỗi dậy. Không nói một lời báo trước, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh. Dân chúng cho rằng bà đã điên lên vì buồn khổ. Tắm em bé trong 15 phút xong, bà ẵm em về nhà. Sáng hôm sau, em hết bệnh. Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.
Bernadette vẫn giản dị, vui tươi, tự nhiên. Hằng ngày cô trở lại hang đá.
Ngày 25-3, cô quỳ cầu nguyện và khuôn mặt bỗng trở nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt: “Bà nói: Ta là Đấng Vô nhiễm thai.”
Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ đã được truyền từ miệng người này sang người khác. Đám đông cất cao lời cầu khẩn: Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.
Bernadette hỏi một người chị bạn thân: Vô nhiễm thai là gì nhỉ? Cô cũng không bao giờ phát âm cụm từ ấy cho chính xác được.
Luôn giữ mình khiêm tốn, Bernadette đã ẩn mình trong một tu viện. Lúc 3 giờ chiều ngày 16-5-1879, cô từ trần, lúc 36 tuổi.
Dòng nước ở hang Massabiele vẫn chảy. Người ta lũ lượt tuôn đến cầu nguyện và không biết bao nhiêu ơn lành Đức Mẹ đã ban cho các tâm hồn thiết tha cầu khẩn. Đức Giáo hoàng Lêô XIII cho phép mừng việc Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, vào ngày 11-2, để ghi nhớ 18 lần Mẹ đã hiện ra với Bernadette, kể từ ngày 11-2 tới ngày 16-7-1858.
Năm 1907, Đức Piô X cho phép toàn thể Giáo Hội mừng lễ này. Cùng với Giáo Hội, chúng ta kính nhớ sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và đừng quên chạy đến Mẹ là nguồn suối chảy tràn muôn ơn phúc.
Trích trong Theo Vết Chân Người của Lm Phạm Quốc Ty
Đức Mẹ Fatima
Ba trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô là những em bé chăn chiên nhà nghèo ở làng quê Fatima, nước Bồ Đào Nha. Các em thường có thói quen sau khi để bầy súc vật ăn cỏ, thì quì gối trên bãi đất trống cùng nhau đọc kinh và lần chuỗi Mân Côi. Giữa lúc châu Âu đang chìm trong chiến tranh thế giới thứ nhất, ngày 13 tháng 5 năm 1917, gần giữa trưa, lúc các em đang sốt sắng lần chuỗi, thì một luồng chớp chói lòa làm các em bỡ ngỡ, quay nhìn những ngọn cây trên đồi Cova da Iria. Các em thấy một thiếu phụ xinh đẹp sáng láng. Bà ngỏ lời xin các em cầu nguyện cho những người tội lỗi ăn năn trở lại và cho chiến tranh sớm kết thúc.
Bà dặn các em hãy trở lại nơi này vào ngày 13 mỗi tháng. Các em trở lại và được nhìn thấy Bà hai lần sau đó vào ngày 13 tháng 6 và ngày 13 tháng 7. Ngày 13 tháng 8, nhà cầm quyền địa phương bắt giữ, không cho các em tới Cova da Iria, nhưng sau đó Bà lạ đã hiện ra với các em vào ngày 19. Ngày 13 tháng 9, Bà xin các em lần hạt Mân Côi để cầu cho chiến tranh sớm kết thúc.
Ngày 13 tháng 10, Bà hiện ra và xưng mình là Đức Mẹ Mân Côi. Đức Mẹ mời gọi các em cầu nguyện và làm việc đền tạ. Lần này, một hiện tượng rất lạ đã xảy ra làm rung động mọi người, trước sự chứng kiến của chính quyền, dân chúng và các nhà báo. Mặt Trời dao dộng múa nhảy, như đang rơi khỏi bầu trời và lao xuống đất. Qua biến cố lạ lùng ấy, Đức Mẹ Maria của chuỗi Mân Côi kêu mời nhân loại hãy ăn năn sám hối: "Mẹ đến kêu nài các tín hữu hãy lần hạt Mân Côi. Mẹ mong ước nơi đây có một nguyện đường tôn kính Mẹ. Nếu người ta cải thiện đời sống thì chiến tranh sớm kết thúc".
Bản sao chụp 1 trang của bo Ilustraço Portugueza ngày 29.10.1917 cho thấy đám đông dân chúng đang ngẩng nhìn Php lạ Mặt trời, khi Đức Mẹ hiện ra ở Fatima
Chính phủ Bồ Đào Nha lúc ấy coi đây là huyền hoặc, một sự tuyên truyền dị đoan, cần phải đánh đổ. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật.
Đức Mẹ đã trao cho ba trẻ nhiều bí mật và căn dặn các em sống thánh thiện để cầu nguyện cho những kẻ có tội và cứu vãn thế giới. Trải qua nhiều năm, Fatima đã thu hút biết bao khách hành hương đến tôn vinh Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Các Đức Giáo Hoàng Piô XII, Phaolô VI và Gioan Phaolô II, đã đích thân tới Fatima để tôn vinh Mẹ, cử hành thánh lễ nơi Đức Mẹ hiện ra và dâng loài người cho Đức Trinh Nữ Maria.
Ba trẻ Lucia, Jacinta, Phanxicô đã sống theo ý Chúa, tuân lời Đức Mẹ. Chúa có con đường của Ngài và Ngài dọn chỗ cho con người tùy lòng xót thương của Ngài. Phanxicô được nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng không được nghe lời Đức Mẹ nói, đã qua đời ngày 04 tháng 4 năm 1919, Giacinta qua đời ngày 20 tháng 2 năm 1920.
Cả 2 em đã được Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 13-5-2000.
Còn chị Lucia Dos Santos nhập dòng Dorothea ở Pontevedra (Tây ban nha) ngày 24.10.1925. Năm 1925 và 1929, Lucia lại được Đức Mẹ hiện ra. Tháng 10-1934, chị tuyên khấn vĩnh viễn với tên dòng là nữ tu Đức Mẹ Maria Sầu Bi. Năm 1948, chị chuyển vào đan viện Cát Minh ở Coimbra (Bồ Đào Nha), với tên dòng là nữ tu Lucia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội. Chị từ trần ngày 14-2-2005, thọ 97 tuổi.
Sau nhiều năm điều tra, xác minh, tìm hiểu và cầu nguyện, ngày 13-10-1930 Đức Cha Da Silva, giám mục giáo phận Leiria, đã viết thư mục vụ công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em nói trên ở Fatima và chính thức cho phép tổ chức các việc đạo đức để tôn kính Đức Maria Mân Côi tại nơi Mẹ đã hiện ra vào năm 1917.
Lược tóm theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c_M%E1%BA%B9_Fatima
Đức Mẹ La Vang
La Vang ngày nay là một thánh địa và là nơi hành hương quan trọng của người Công giáo Việt Nam, nằm ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Các tín hữu tin rằng, Đức Mẹ Maria hiển linh ở khu vực này vào năm 1798 và một nhà thờ đã được xây dựng gần nơi 3 cây đa, nơi Đức Mẹ hiện ra. Thánh địa La Vang được Tòa thánh Vatican phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961.
Theo Tư liệu Tòa Tổng Giám Mục Huế - 1998, dưới triều đại vua Cảnh Thịnh (lên ngôi năm 1792), với chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Nơi rừng thiêng nước độc, hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân, sợ thú dữ, các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.
Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một thiếu phụ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay là Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó. Mẹ dạy hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.
Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn.
Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi. Nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Mẹ đều được ơn theo ý nguyện. Đức Mẹ La Vang thường được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài Việt Nam.
Năm 1885 nhà thờ La Vang bị đốt. Khi được bình an trở lại, một nhóm giáo dân đã dựng lại nhà thờ Đức Mẹ trên nền cũ. Năm 1924, nhận thấy ngôi nhà thờ ngói quá chật hẹp, lại đã xuống cấp cho nên một đền thánh La Vang theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier được dựng lên thay thế và được khánh thành vào ngày 20 tháng 08 năm 1928, nhân dịp Đại hội La Vang 9. Thánh đường này được trùng tu năm 1959. Trong phiên họp ngày 13 tháng 04 năm 1961 Hội Đồng Giám Mục Miền Nam đã đồng thanh quyết định La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc. Trong chiến cuộc Mùa Hè 1972, bom đạn đã làm sập đổ hoàn toàn Vương Cung Thánh Đường, chỉ còn lại di tích tháp chuông loang lổ.
Từ năm 1995, tháp chuông và những công trình liên hệ dần dần được tu sửa hay dựng mới.
Theo truyền khẩu, bắt đầu từ 1864, đã có 30 giáo dân Cổ Vưu tổ chức hành hương La Vang và những cuộc hành hương như thế diễn ra hằng năm với số giáo dân tham dự càng lúc càng đông biến cuộc hành hương La Vang cấp giáo xứ (Cổ Vưu) thành giáo hạt (Dinh Cát). Từ khi nhà thờ ngói được dựng, hàng năm vào ngày 15 tháng 8 tại La Vang thường tổ chức lễ hội hành hương, gọi là "Kiệu" (cứ 3 năm lại có một "Kiệu" lớn, gọi là "Đại hội La Vang"). Người hành hương về nơi này có thể mua được lá cây vằng, một loại lá thường dùng sắc thuốc hoặc uống mát, lành và có khả năng kháng khuẩn, rất tốt cho phụ nữ sau khi sinh nở. Không những thế, khách thập phương đến đây là để hành hương và cầu xin những ơn lành mà người Công giáo tin rằng Đức Mẹ sẽ ban ơn như ý.
Sau một thời gian gián đoạn, từ năm 1990, chính quyền địa phương đã cho phép hành lễ tại đây trở lại. La Vang đã trở thành thánh địa hành hương quan trọng nhất của người Công giáo Việt Nam, hàng năm có hơn nửa triệu người về hành hương.
Lược tóm theo Từ điển Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c_M%E1%BA%B9_La_Vang
è Đường về La Vang
Phía nam thành phố Quảng Trị, từ quốc lộ 1, qua khỏi cầu Trắng, có hai ngả phía tây rẽ vào La Vang:
- tại km 771,350
- tại km 775,100
GHI CHÚ VỀ ĐỊA DANH LA VANG:
Khoa khảo cổ hiện nay cho biết địa danh La Vang đã có từ xa xưa, ít là từ đầu thế kỷ XII. Hai bi ký Chăm đánh số C101 ở Mỹ Sơn và C17 ở Đané Ninh Thuận (cùng một nội dung), ghi lại chiến thắng của vua Jaya Harivarman I năm 1150, đã nêu rõ địa danh Lavang, gần Đông Hà (Dalvâ). Nội dung bi ký được dịch và trích đăng trong quyển “Dân tộc Chăm lược sử” của hai tác giả người Chăm Dorohiêm và Dohamide (giáo sư Nghiêm Thẩm đề tựa), tác giả xuất bản năm 1965 (nhà in Lê Văn Phước, 72 Phát Diệm, Sài Gòn), trang 59-60. Có lẽ chữ La đầu địa danh này cùng nghĩa với một loạt địa danh khác từ Nghệ An trở vào bắt đầu bằng âm La: La Nham (Xã Nghi Yên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), La Ngà, (xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị, La Hồ ( thuộc huyện Nam Đông, Thừa Thiên-Huế ); La Nang, La Huân, La Thọ, La Châu và La Bông (Điện Bàn, Quảng Nam); La Vân (xã Phổ Thanh, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi), La Hà (huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi), La Tinh (dòng sông phát nguồn từ huyện Vĩnh Thạnh, Bình Định), La Vuông (Hoài Sơn, Hoài Nhơn, Bình Định); La Hai (huyện Đồng Xuân, Phú Yên), La Chữ (huyện Ninh Phước, Ninh Thuận); La Gi (huyện Hàm Tân, Bình Thuận), La Dạ (huyện Hàm Thuận Bắc), La Ngâu (huyện Tánh Linh), La Gan (mũi đất nhô ra biển, huyện Tuy Phong), La Dày (giáo họ thuộc giáo xứ Phú Hội, giáo phận Phan Thiết), La Ngà (tên nhánh bên trái của sông Đồng Nai, chảy qua các huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Đức Linh, tỉnh Bình Thuận – và cũng là tên thị trấn La Ngà có cầu bắc qua sông La Ngà, km 101, quốc lộ 20, Sài Gòn đi Đà Lạt), La Ba (Đức Trọng, Lâm Đồng).
Đức Mẹ Tà Pao
Bức tượng Đức Mẹ khi được phát hiện lại vào năm 1999
Tượng Đức Mẹ trên núi Tà Pao nằm ở xã Đồng Kho, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận là một trong năm tượng Đức Mẹ Maria được đặt rải rác ở Miền Trung, Miền Nam và Cao nguyên Trung phần vào năm 1959. Tượng Đức Mẹ này đúc bằng xi măng trắng cao 3m, đặt trên một bệ vuông cao 2m.
Khu vực bức tượng sau khi được trùng tu. Phía trước là sông La Ngà
Ngày 8 tháng 12 năm 1959, lễ Cung hiến và khánh thành tượng Đức Mẹ Tà Pao do Giám mục Marcello Piquet Lợi (giám mục giáo phận Nha Trang bấy giờ) cử hành, với sự chứng kiến của đông đảo linh mục, tu sĩ và hàng chục ngàn giáo dân phần lớn gốc di cư từ Huế, Nha Trang, Buôn Mê Thuột, Đồng bằng sông Cửu Long...
Từ năm 1964 đến năm 1975, hầu hết giáo dân đi sơ tán về vùng Nam sông La Ngà và những nơi khác, nên tượng Đức Mẹ Tà Pao dường như bị lãng quên từ đó.
Vị trí bức tượng trên núi
Sau biến cố 1975, vào khoảng tháng 10 năm 1980, một số giáo dân thuộc vùng kinh tế mới xã Đức Tân và xã Huy Khiêm đã tiến hành tìm kiếm lại tượng Đức Mẹ Tà Pao. Vào mùa Phục Sinh năm 1989, một số giáo dân giáo xứ Nghị Đức và Huy Khiêm đến thăm viếng tượng Đức Mẹ Tà Pao và phát hiện phần đầu, tay, chân của tượng bị bể nát. Khoảng cuối tháng 6 năm 1991, nhân dịp lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, những người này được sự cho phép và cổ vũ của giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi (giám mục giáo phận Phan Thiết bấy giờ) và sự khích lệ của linh mục Phanxicô Xaviê Đinh Tân Thời (quản xứ Duy Cần cũ, nay giáo xứ Gia An) đã đến nhờ nhà điêu khắc Lê Phát (hiện đang ở giáo xứ Ngũ Phúc, giáo phận Xuân Lộc) đắp vá và sửa sang lại tượng Đức Mẹ Tà Pao. Công việc hoàn tất ngày 30 tháng 7 năm 1991.
Ngày 29 tháng 9 năm 1999, lễ các Tổng lãnh thiên thần, một số giáo dân vùng Phương Lâm và phụ cận, sau đó là các vùng Dốc Mơ, Gia Kiệm, Hố Nai, rồi Sài Gòn... tuôn đổ về vùng giáp ranh giữa Phương Lâm và Tánh Linh với ước muốn được tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ như lời kể của ba em học sinh ở Phương Lâm trước đó. Các em cho rằng đã thấy Đức Mẹ hiện ra và bay về phía bên kia núi.
Kể từ đầu năm 2000, nhiều đoàn người đổ xô về núi Tà Pao để hành hương. Từ đó đến nay, nhiều người Công giáo đã tường thuật lại nhiều câu chuyện lạ và ơn lạ xung quanh bức tượng Đức Mẹ Tà Pao.
Hiện nay, tượng Đức Mẹ Tà Pao và khu vực khuôn viên đã được Tòa Giám mục Phan Thiết tiến hành trùng tu. Lễ đài được xây dựng trên nền cũ với diện tích 200m² còn bậc cấp được xây mới dài 250m, rộng 2m, trên 400 bậc, nhằm mục đích phục vụ khách hành hương thuận tiện khi lên núi viếng Đức Mẹ. Công trình được khánh thành vào ngày 13 tháng 5, 2007 (ngày 13 hàng tháng vẫn thường có thánh lễ do giám mục giáo phận Phan Thiết cử hành trên núi hoặc dưới chân núi) và chính thức có tên gọi Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Tà Pao. Năm 2009, Giáo phận Phan Thiết tổ chức "Năm Thánh Đức Mẹ Tà Pao" để kỷ niệm 50 năm khánh thành bức tượng. Sự kiện này thu hút rất đông khách hành hương đến khu vực này mỗi tháng.
Lược tóm theo Từ điển Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A9c_M%E1%BA%B9_T%C3%A0_Pao