Nhảy đến nội dung

02 Bài 02

  • T4, 22/01/2025 - 21:13
  • admin1

MẸ MARIA
VÀ CUỘC ĐỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA

 

Lúc đó là trước cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43) ở nước ta chưa đầy năm chục năm. Tại làng Nazarét, ở miền Galilê, phía Bắc nước Do Thái, có một thiếu nữ xuân thì tên là Maria, đã đính hôn với một người thợ mộc trẻ vốn thuộc hoàng tộc vua Đavít, tên là Giuse. Khi hai người chưa về chung sống với nhau, thì Maria đã được ơn Thiên Chúa để mang thai Đấng Cứu Thế.

1. Thiên thần báo tin Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu

Một trong bốn tác phẩm ở đầu bộ Tân Ước là sách Tin Mừng theo thánh Luca. Quyển này mở đầu với việc thiên thần Gabriel hiện ra với ông Giacaria trong Đền thờ Giêrusalem, báo cho biết người vợ già nua hiếm muộn của ông là bà Êlizabét sẽ thụ thai sinh một người con trai để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tiếp đó ông thuật lại việc vị thiên thần ấy hiện đến báo tin cho Đức Maria như sau:

Bà Êlizabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nazarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Ngài sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Ngài. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlizabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi. (Luca 1,26-38)

2. Đức Mẹ đi thăm bà Êlizabét

Đức Maria là một phụ nữ nhạy cảm, đầy lòng thương người. Được tin người chị hiếm muộn mang thai trong tuổi già, ngài đã mau mắn tìm đến giúp đỡ. Thánh Luca viết tiếp:

Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Zacaria và chào hỏi bà Êlizabét. Bà Êlizabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em.” (Luca 2,39-45)

Bà Maria ở lại với bà Êlizabét độ ba tháng. Bà này sinh một người con trai, và đặt tên cho con là Gioan.

*

 

Khi Đức Maria trở về Nazarét, sóng gió đã đến với cuộc hôn nhân của Ngài. Thánh Giuse kinh ngạc khi thấy bạn mình đã có thai và định âm thầm bỏ trốn. Câu chuyện được Thánh Matthêu ghi lại như sau:

Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Ngài, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Matthêu 1,18-24)

3. Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang Bêlem

Sóng gió vừa qua đi, đôi vợ chồng trẻ đang chuẩn bị đón vị Cứu Thế chào đời thì bão tố lại đến. Họ bị buộc phải rời Nazarét ngay khi Đức Maria sắp đến ngày sinh. Thánh Luca ghi lại như sau:

“Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ… Ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê quay về thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Ngài là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Ngài: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

(Luca 2,1-14)

4. Đức Mẹ dâng con trong Đền Thánh

Khi Hài Nhi Giêsu mới sinh được bốn mươi ngày, Đức Maria và Thánh Giuse đã đem Ngài lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa. Thánh Luca ghi lại như sau:

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.

Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Ngài, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa.

Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về Ngài. Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nazarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa. (Luca 2,22-28.33-35.39-40).

5. Đức Mẹ lạc mất con và tìm lại được

Thời gian Chúa Cứu Thế sống tại Nazarét kéo dài ba mươi năm. Cuộc sống thôn dã, êm đềm, giản dị. Thánh Giuse làm nghề thợ mộc nuôi sống gia đình. Ngài cùng với Đức Maria dạy dỗ và chăm sóc cho người con đang chuẩn bị lên đường thi hành sứ mạng. Suốt quãng đời dài, có một sự kiện không quên được, đó là việc trẻ Giêsu bị lạc mất khi 12 tuổi. Thánh Luca ghi lại như sau:

Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Ngài được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.

Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Ngài nói với Ngài: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Ngài đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Ngài vừa nói.

Sau đó, Ngài cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Ngài thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta. (Luca 2,41-52)

Thưa quý bạn đọc,

Thiên thần truyền tin cho Đức Maria. Đức Maria đi thăm và giúp đỡ bà Êlizabét. Đức Maria sinh con ở Bêlem, dâng con trong Đền thờ, rồi lạc mất con và tìm lại được. Năm sự kiện quan trọng ấy trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Cứu Thế được gọi là Năm sự Vui, hay năm mầu nhiệm mùa Vui.

Theo gương Chúa và Đức Mẹ trong giai đoạn này, ta quyết sống công bằng thanh thoát, vượt khỏi quyến rũ của văn minh vật chất. Cụ thể là:

- Chọn Thiên Chúa làm mục đích đời ta và là kho tàng của lòng ta

- Quảng đại dùng tiền của vật chất để xây dựng nhân nghĩa và mua sắm Nước Trời

- Luôn tôn trọng quyền lợi vật chất và tinh thần của người khác, quan tâm cảm thông với người khác và mau mắn giúp đỡ họ

- Trung thực, không gian dối từ trong suy nghĩ, lời nói đến việc làm

- Vui vẻ làm tròn bổn phận hiện tại trong tinh thần siêu thoát giản dị, hoàn toàn tin cậy Thiên Chúa.