03 Chương 3
CHƯƠNG BA
GỐC RỄ NHÂN LOẠI CỦA
CUỘC KHỦNG HOẢNG SINH THÁI
101. Mô tả các triệu chứng của cơn khủng hoảng sinh thái ích lợi gì nếu chúng ta không nhận thức được gốc rễ nhân loại của nó. Có một cách hiểu về cuộc sống và hoạt động con người bị lệch lạc và đi ngược với thực tại đến độ gây hại cho nó. Tại sao chúng ta không thể dừng lại để suy nghĩ về điều ấy ? Trong suy tư này, tôi đề nghị chúng ta tập trung vào kiểu hình kỹ trị đang nổi trội cũng như vào vị trí của con người và hoạt động của nó trong thế giới.
I. CÔNG NGHỆ : KHẢ NĂNG SÁNG TẠO VÀ QUYỀN LỰC
102. Nhân loại đã bước vào một thời kỳ mới trong đó sức mạnh công nghệ đặt chúng ta ở ngã ba đường. Chúng ta là những người thừa kế của hai thế kỷ có nhiều đợt sóng thay đổi lớn: máy hơi nước, đường sắt, điện tín, điện khí, xe hơi, máy bay, các kỹ nghệ hóa chất, y khoa tân tiến, thông tin học, và gần đây hơn, cách mạng kỹ thuật số, việc nghiên cứu người máy, các công nghệ sinh học và các công nghệ siêu nhỏ. Đúng là phải vui mừng trước các tiến bộ đó và hào hứng trước các khả năng to lớn mà những điều mới lạ không ngừng đó mở ra cho chúng ta, vì “khoa học và công nghệ là một sản phẩm kỳ diệu do năng lực sáng tạo của con người, một quà tặng của Thiên Chúa”[81]. Việc biến đổi thiên nhiên vì những mục tiêu hữu ích là một đặc điểm của nhân loại ngay từ đầu, và như thế, kỹ thuật “diễn tả xu hướng của tâm trí con người là dần dần vượt qua một số điều kiện giới hạn của vật chất” [82]. Công nghệ đã đem phương dược chữa trị vô số điều dữ từng làm hại và giới hạn con người. Chúng ta không thể không đánh giá cao và quý chuộng sự tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong y khoa, công nghệ ứng dụng và các phương tiện liên lạc. Làm sao không thừa nhận mọi cố gắng của nhiều khoa học gia và kỹ thuật gia vốn đã mang đến nhiều cái để chọn lựa cho một sự phát triển lâu dài.
103. Khoa học công nghệ, nếu được định hướng đúng, không những có thể sản xuất nhiều vật thực sự quý giá để cải thiện phẩm chất sống của con người, từ các vật dụng trong nhà tới các phương tiện chuyên chở lớn lao, những cây cầu, những dinh thự, những nơi công cộng, nhưng còn có khả năng sản sinh cái đẹp và “phóng” con người đang chìm trong thế giới vật chất vào lãnh vực cái đẹp. Người ta có thể phủ nhận vẻ đẹp của một chiếc máy bay hoặc vài nhà chọc trời hay không ? Có nhiều tuyệt phẩm hội họa và âm nhạc được thực hiện nhờ sử dụng các công cụ kỹ thuật mới. Như thế, trong việc tìm kiếm vẻ đẹp từ phía người sản sinh kỹ thuật và nơi người chiêm ngắm vẻ đẹp này, thể hiện một bước nhảy vào một sự viên mãn nào đó của riêng con người.
104. Nhưng chúng ta cũng không thể bất biết rằng năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, thông tin học, kiến thức về ADN của chúng ta và nhiều khả năng khác mà chúng ta đã thủ đắc, đang trao cho chúng ta một quyền lực kinh khủng. Đúng hơn, chúng ban cho những ai có kiến thức, nhất là có quyền lực kinh tế để sử dụng chúng, một ảnh hưởng đáng kinh ngạc trên toàn thể nhân loại lẫn cả thế giới. Chưa bao giờ nhân loại có được quyền lực như thế trên chính mình, và không gì bảo đảm rằng nhân loại sẽ luôn sử dụng nó đúng đắn, nhất là nếu người ta nghĩ đến cách nó đang được nhân loại sử dụng. Chỉ cần nhớ tới những quả bom nguyên tử được thả ngay giữa thế kỷ XX, cũng như đến việc đại triển khai kỹ thuật kiểu phô trương của chủ nghĩa Phát xít, Cộng sản và nhiều chế độ độc tài để tiêu diệt hằng triệu người, cũng không quên rằng ngày nay chiến tranh có nhiều công cụ luôn gây chết thêm mãi. Quyền lực như thế đang nằm và sẽ có thể nằm trong những bàn tay nào ? Thật liều mạng kinh khủng nếu nó nằm trong tay một phần nhỏ của nhân loại.
105. Người ta có xu hướng tin rằng “mỗi sự gia tăng sức mạnh tự nó là một “tiến bộ”, một độ cao hơn về an ninh, hữu ích, phúc lợi, sinh lực, viên mãn các giá trị” [83], như thể thực tại, thiện và chân tự nhiên nổi lên từ chính sức mạnh kỹ thuật và kinh tế. Thực tế, “con người hiện đại đã không nhận được sự giáo dục cần thiết để sử dụng đúng quyền lực của mình” [84], vì sự tiến bộ kỹ thuật bao la đã không đi kèm với việc phát triển con người về trách nhiệm, giá trị và lương tâm. Mỗi thời đại đều có khuynh hướng phát triển ít sự tự ý thức về các giới hạn của mình. Chính vì thế, có thể ngày nay nhân loại không ý thức về sự trầm trọng của những thách đố đang xuất hiện, và “khả năng con người sử dụng sai quyền lực của mình chẳng ngớt lớn dần” khi “không có những qui tắc cho tự do, nhưng chỉ có những cái được cho là cần thiết: ích lợi và an ninh” [85]. Con người không hoàn toàn tự trị. Tự do của nó bị ảnh hưởng khi tự do này phó mình cho những lực mù quáng của vô thức, của những nhu cầu trực tiếp, của ích kỷ, của bạo lực. Theo nghĩa này, con người là trần trụi, bị phó mặc cho quyền lực ngày càng lớn mạnh của mình, mà không có những yếu tố để kiểm soát nó. Con người có thể sử dụng nhiều cơ chế hời hợt, nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng ngày nay nó thiếu một nền đạo đức vững chắc, một văn hóa và một linh đạo thực sự giới hạn nó và khiến nó sáng suốt hy sinh quên mình.
II. TOÀN CẦU HÓA MÔ HÌNH KỸ TRỊ
106. Vấn đề cơ bản lại khác, còn sâu xa hơn nữa: đó là cách mà nhân loại, trên thực tế, đã đảm nhận công nghệ và sự phát triển của nó với một mô hình thuần nhất và đơn chiều. Trong mô hình này, nổi bật một quan niệm về chủ thể cho rằng chủ thể này, trong tiến trình hợp lô-gich và thuần lý, từ từ ôm lấy và như thế chiếm hữu đối tượng nằm ở bên ngoài. Chủ thể này tự bày tỏ trong việc xây dựng phương pháp khoa học với sự thực nghiệm nó, một phương pháp mà đã rõ ràng là một kỹ thuật chiếm hữu, thống trị và biến đổi. Đó như thể là chủ thể đứng trước một cái gì đấy vô hình dạng, hoàn toàn sẵn sàng để bị thao tác. Sự can thiệp của con người trên thiên nhiên đã luôn được xác nhận, nhưng trong thời gian dài, nó như có một đặc tính là đi kèm, là uốn mình theo các khả năng mà chính vạn vật cống hiến. Đó đã từng là việc đón nhận những gì mà thực tại tự nhiên tự nó cho phép, như thể đưa tay ra. Ngược lại, bây giờ, cái khiến quan tâm chính là rút ra tất cả những gì có thể từ vạn vật bằng việc áp đặt bàn tay con người mà bất biết hay quên đi chính thực tại của cái có trước mắt mình. Vì thế, tại sao con người và vạn vật đã ngừng đưa tay thân ái cho nhau để đi vào một cuộc đụng đầu. Từ đó người ta dễ dàng tiến tới ý tưởng về một sự tăng trưởng vô biên, bất giới hạn, vốn đã làm say mê các kinh tế gia, tài chính gia và kỹ thuật gia. Điều đó giả thiết một sự dối trá về tính khả dụng vô hạn của các tài nguyên hành tinh, đưa đến việc “vắt ép” nó đến tận các giới hạn hay thậm chí vượt quá các giới hạn. Đúng là tiền giả định sai lầm khi cho rằng “có một khối năng lượng và tài nguyên vô giới hạn có thể sử dụng, rằng việc tái tạo chúng là có thể ngay tức khắc, và các hiệu quả tiêu cực do việc thao túng trật tự tự nhiên có thể dễ dàng xóa sạch” [86].
107. Vì thế, người ta có thể nói rằng ở nguồn gốc của nhiều khó khăn của thế giới hiện tại, trước tiên có xu hướng –không luôn ý thức rõ– muốn biến phương pháp luận và nhiều mục tiêu của khoa học kỹ thuật thành một mô hình hiểu biết vốn điều kiện hóa cuộc sống của con người và vận hành của xã hội. Các hiệu quả của việc áp dụng khuôn mẫu này cho tất cả thực tại con người lẫn xã hội có thể được nhận thấy trong sự suy thoái của môi trường, nhưng điều đó chỉ là một dấu hiệu của chủ nghĩa giản lược vốn ảnh hưởng đến cuộc sống con người và xã hội trong mọi chiều kích. Phải công nhận rằng các sản phẩm của kỹ thuật không trung tính, vì chúng tạo một khuôn khổ mà rốt cục điều kiện hóa các kiểu sống và hướng các khả năng xã hội theo các lợi ích của những nhóm quyền lực được xác định. Một vài lựa chọn có vẻ mang tính công cụ thuần túy, thật ra là những lựa chọn theo kiểu sống xã hội mà người ta muốn phát triển.
108. Không được phép nghĩ rằng có thể bảo vệ một mô hình văn hóa khác và sử dụng kỹ thuật như công cụ thuần túy, vì hôm nay mô hình kỹ trị đã trở nên ưu thắng, tới độ khó bỏ qua các nguồn lực của nó và càng khó hơn nữa để sử dụng chúng mà không bị lô-gích của chúng chế ngự. Đã trở thành một phản-văn hóa khi chọn một kiểu sống với nhiều mục tiêu có thể độc lập ít ra một phần với kỹ thuật, với các giá của nó, cũng như với quyền lực toàn cầu hóa và quần chúng hóa của nó. Trong thực tế, kỹ thuật có xu hướng tìm thâu tóm tất cả trong lô-gích sắt máu của mình, và con người nắm được kỹ thuật “biết rằng phân tích cho rốt ráo, cái quan trọng trong kỹ thuật không phải là sự hữu dụng hay sự thoải mái, nhưng là thống trị: một sự thống trị theo nghĩa cực đoan nhất của từ này” [87]. Và vì thế, “nó tìm cách nắm bắt các yếu tố của thiên nhiên, cũng như các yếu tố của cuộc sống con người” [88]. Khả năng quyết định, sự tự do đích thực nhất và không gian cho một khả năng sáng tạo của các cá nhân, đều bị thu hẹp lại.
109. Mô hình kỹ trị cũng có khuynh hướng thực thi sự thống trị của nó trên kinh tế và chính trị. Kinh tế đảm nhận tất cả sự phát triển kỹ thuật tùy theo lợi nhuận, không chú tâm đến các hậu quả tiêu cực có thể xảy ra cho con người. Tài chính bóp ngẹt kinh tế đích thực. Các bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã không được giữ lại, và người ta cũng chậm để ý đến các bài học của sự hư hoại môi trường. Trong một vài hội, người cho rằng kinh tế hiện thời và kỹ thuật sẽ giải quyết mọi vấn đề môi trường. Người ta cũng quả quyết, với ngôn ngữ ít hàn lâm, rằng các vấn đề đói và khổ trong thế giới sẽ được giải quyết cách đơn giản nhờ việc tăng trưởng thị trường. Đấy không phải là vấn đề hiệu lực của các lý thuyết kinh tế, mà có lẽ không ai hôm nay dám bảo vệ, nhưng là việc thực sự thiết đặt chúng trong sự phát triển kinh tế. Những ai không khẳng định điều đó bằng lời thì lại ủng hộ nó trong các sự kiện, khi một mức độ sản xuất đúng đắn, một sự phân bố của cải tốt hơn, một sự bảo vệ môi trường đầy trách nhiệm và các quyền của những thế hệ tương lai xem ra chẳng làm họ bận tâm. Thái độ của họ cho thấy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận là đã đủ. Nhưng thị trường tự nó không bảo đảm cho việc phát triển con người trọn vẹn, cũng như cho việc hội nhập xã hội. [89]. Trong lúc chờ đợi, chúng ta có một “sự phát triển thái quá, trong đó tiêu thụ và phí phạm đi cùng nhau, một sự tương phản không thể chấp nhận với những hoàn cảnh thường xuyên cùng khốn và mất nhân phẩm”[90]; và các định chế kinh tế cũng như các chương trình xã hội cho phép những người nghèo khổ nhất thường xuyên tiếp cận các tài nguyên căn bản, không được dựng nên cách nhanh chóng. Người ta đã không chú ý đủ đến các gốc rễ sâu xa của những rối loạn hiện thời vốn có liên hệ đến chiều hướng, mục đích, ý nghĩa và bối cảnh xã hội của sự tăng trưởng kỹ thuật và kinh tế.
110. Việc chuyên môn hóa chính công nghệ bao hàm một khó khăn lớn để nhìn được toàn bộ. Việc phân mảnh các kiến thức thì dùng để thực hiện các áp dụng cụ thể, nhưng thường khiến đánh mất ý thức về tổng thể, về các liên hệ vốn có giữa vạn vật, về một chân trời rộng rãi vốn trở thành không quan trọng. Chính điều đó ngăn cản việc tìm ra nhiều con đường thích hợp để giải quyết các vấn đề phức tạp nhất của thế giới hiện tại, nhất là những vấn đề của môi trường và của những người nghèo, là những vấn đề không thể được đề cập bằng một cái nhìn duy nhất hay theo một kiểu quan tâm duy nhất. Một khoa học muốn đưa ra nhiều giải pháp cho các vấn đề lớn lao, cần phải quan tâm tới tất cả những gì mà sự hiểu biết đã sinh ra trong các lãnh vực khác của kiến thức, bao gồm cả triết học và đạo đức xã hội. Nhưng đây là một thói quen khó theo hôm nay. Vì thế, nhiều chân trời luân lý đích thực để tham chiếu không còn có thể được nhận ra nữa. Cuộc sống đang bị bỏ mặc cho những hoàn cảnh bị điều kiện hóa bởi kỹ thuật được hiểu như phương tiện chính yếu để giải thích sự hiện hữu. Trong thực tế cụ thế đang chất vấn chúng ta, nhiều triệu chứng xuất hiện cho thấy sai lầm này, như sự suy thoái môi trường, nỗi lo âu khắc khoải, việc đánh mất ý thức về sự sống và về việc sống chung. Như thế, người ta một lần nữa thấy rằng “thực tại cao hơn ý tưởng” [91].
111. Văn hóa sinh thái không thể bị giản lược vào một loạt giải đáp khẩn cấp và manh mún cho các vấn đề đang xuất hiện mà có liên quan đến sự suy thoái môi trường, sự cạn kiệt các dự trữ thiên nhiên và sự ô nhiễm. Nó nên là một cái nhìn khác, một tư tưởng, một chính sách, một chương trình giáo dục, một kiểu sống và một linh đạo làm nên một sự đối kháng trước sự tiến triển của mô hình kỹ trị. Bằng không, ngay cả những sáng kiến sinh thái học tốt đẹp nhất rốt cục đều có thể bị nhốt trong chính cái lô-gích được toàn cầu hóa. Chỉ tìm một phương thuốc kỹ thuật cho mỗi vấn đề môi trường nổi lên, đó là cô lập hóa các sự vật vốn đan kết nhau trong thực tại, và đó là tự che giấu những vấn đề đích thực và sâu xa nhất của hệ thống toàn cầu.
112. Tuy nhiên, có thể mở rộng cái nhìn lần nữa, và tự do của con người có khả năng giới hạn kỹ thuật, định hướng nó cũng như đặt nó phục vụ một kiểu tiến bộ khác, lành mạnh hơn, nhân bản hơn, xã hội hơn và toàn vẹn hơn. Sự giải thoát khỏi mô hình kỹ trị ưu thắng trên thực tế đã xảy ra trong vài cơ hội, tỉ như khi nhiều cộng đồng các nhà sản xuất nhỏ chọn những hệ thống sản xuất ít ô nhiễm hơn bằng cách ủng hộ một kiểu sống, kiểu hạnh phúc và kiểu đồng cư không theo chủ nghĩa tiêu thụ; hoặc khi kỹ thuật được ưu tiên hướng đến cách giải quyết các vấn đề cụ thể của những kẻ khác, với niềm đam mê giúp họ sống với phẩm giá nhiều hơn và đau khổ ít hơn; cũng như khi ý hướng sáng tạo cái đẹp và việc chiêm ngắm nó đi đến chỗ vượt qua quyền lực đối tượng hóa để thành một kiểu cứu thoát được thực hiện trong cái đẹp và trong con người chiêm ngắm cái đẹp. Nhân tính đích thực, vốn mời gọi thực hiện một tổng hợp mới, xem ra cư ngụ giữa nền văn minh kỹ thuật gần như theo cách khó nhận ra, như sương mù len vào dưới một cánh cửa đóng kín. Dù gì đi nữa, phải chăng đó là một hứa hẹn thường trực vọt ra như một sự phản kháng bền bỉ của cái gì chân thực ?
113. Mặt khác, xem ra con người không còn tin vào một tương lai hạnh phúc, họ chẳng mù quáng đặt tin tưởng vào một ngày mai tốt hơn từ những điều kiện hiện tại của thế giới và những khả năng kỹ thuật. Họ ý thức rằng các tiến triển của khoa học và kỹ thuật không tương đương với các tiến triển của nhân loại và của lịch sử, và họ nhận thấy rằng những con đường cơ bản cho một tương lai hạnh phúc thì khác hẳn. Tuy nhiên, họ không vì thế mà nghĩ rằng phải từ khước những khả năng do công nghệ cống hiến. Nhân loại đã thay đổi một cách sâu xa, và việc tích tụ không ngừng những vật mới mẻ xác nhận một sự chóng qua mau tàn dẫn chúng ta vào một hướng duy nhất, nằm trên bề mặt sự vật. Việc chúng ta dừng lại để tìm lại chiều sâu của cuộc sống trở nên khó khăn. Nếu đúng là ngành kiến trúc phản ánh tinh thần của một thời đại, các đại công trình và các chuỗi gia cư biểu lộ tinh thần của kỹ thuật toàn cầu hóa, nơi mà sự mới mẻ thường xuyên của các sản phẩm kết hợp với một sự chán ngán nặng nề. Chúng ta chớ cam chịu điều ấy và chớ từ bỏ việc tự vấn về các mục đích và về ý nghĩa của mọi sự. Bằng không, chúng ta sẽ hợp thức hóa hoàn cảnh hiện tại và sẽ luôn cần thêm mãi những thế phẩm để chịu đựng sự trống rỗng.
114. Điều đang xảy đến trong lúc này đặt chúng ta trước việc phải khẩn cấp tiến tới trong một cuộc cách mạng văn hóa can đảm. Khoa học và kỹ thuật không phải trung tính, nhưng từ đầu cho đến cuối một tiến trình, có thể bao hàm nhiều ý hướng và khả năng khác nhau, và chúng có thể được định hình bằng nhiều cách khác biệt. Không ai muốn trở lại thời kỳ hang động, tuy thế cần đi chậm lại để nhìn vào thực tại một cách khác, thu nhận những tiến triển tích cực và lâu dài, đồng thời thu hồi các giá trị và các mục đích lớn lao vốn đã bị phá vỡ bởi một sự cuồng nhiệt hoang tưởng tự đại.
III. CƠN KHỦNG HOẢNG VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA THUYẾT QUY NHÂN TÂN THỜI
115. Thuyết quy nhân tân thời, một cách nghịch lý, đã đi đến chỗ đặt lý luận kỹ thuật lên trên thực tại, vì con người “không còn cảm thức rằng thiên nhiên là một quy tắc có giá trị, và rằng nó cống hiến cho mình một nơi trú ẩn sống động. Không với những giả định tiên quyết, cách khách quan, con người thấy thiên nhiên dưới hình thức một không gian và một chất liệu cho một công trình mà người ta ném vào đó tất cả, chẳng cần biết hậu quả như thế nào” [92]. Với cách thức này, giá trị mà thế giới có trong chính mình bị yếu đi. Nhưng nếu con người không tái khám phá vị trí đích thực của mình, nó sẽ không hiểu rõ chính mình và cuối cùng phản lại thực tại của mình... “Không chỉ có trái đất đã được Thiên Chúa ban cho con người vốn phải sử dụng nó trong sự tôn trọng ý hướng nguyên thủy, tốt lành khi nó được tặng ban; nhưng con người cũng được Thiên Chúa ban cho chính mình và vì thế phải tôn trọng cơ cấu tự nhiên và luân lý mà mình đã được phú ban” [93].
116. Trong thuyết/tính tân thời, đã có một sự quy nhân quá đáng mà dưới nhiều hình thức khác, hôm nay vẫn tiếp tục hủy hoại mọi quy chiếu chung và mọi toan tính củng cố các liên hệ xã hội. Vì thế đã đến lúc lại phải chú tâm tới thực tại với các giới hạn mà nó áp đặt, những giới hạn này, đến phiên chúng, lại cống hiến khả năng phát triển con người và xã hội cách lành mạnh hơn và phong phú hơn. Một kiểu trình bày không thích đáng về nhân học Kitô giáo có thể đã dẫn đến chỗ bênh vực một quan niệm sai lầm về liên hệ giữa con người với thế giới. Một giấc mơ thống trị thế giới kiểu Prométhé đã năng được truyền lại và cho cảm tưởng rằng việc bảo vệ thiên nhiên là để cho những kẻ yếu đuối. Cách giải thích đúng đắn ý niệm con người như “chúa” của vũ trụ đúng ra là cách giải thích xem con người như quản lý có trách nhiệm. [94]
117. Sự thiếu quan tâm đến việc đo lường những thiệt hại gây ra cho thiên nhiên và những tác động lên môi sinh của các quyết định, chỉ là phản ánh rõ ràng nhất của việc thờ ơ thừa nhận sứ điệp mà thiên nhiên ghi khắc trong chính các cơ cấu của nó. Khi người ta không nhận ra, trong chính thực tại, giá trị của một người nghèo, của một bào thai người, của một con người sống trong tình trạng thiệt thòi bất lợi –nêu ra vài ví dụ vậy– người ta sẽ khó nghe được các tiếng kêu của chính thiên nhiên. Tất cả đều liên kết với nhau. Nếu con người tuyên bố mình tự trị đối với thực tại và tự đặt mình làm kẻ thống trị tuyệt đối, thì chính nền tảng cuộc sống của mình bị sụp đổ, vì “thay vì hoàn thành vai trò cộng tác viên của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, con người lại thế chỗ Thiên Chúa và cuối cùng gây nên sự phản kháng của thiên nhiên” [95].
118. Hoàn cảnh này đưa chúng ta vào một chứng tâm thần phân liệt triền miên, đi từ việc tôn vinh kỹ trị vốn không thừa nhận giá trị riêng của các hữu thể khác, đến phản ứng phủ nhận tất cả giá trị đặc biệt của con người. Nhưng người ta không thể bỏ qua nhân tính được. Sẽ không có liên hệ mới nào với thiên nhiên mà chẳng có một con người mới. Không có sinh thái học mà chẳng có nhân học thích ứng. Khi con người bị xem chỉ như một hữu thể giữa các hữu thể khác, phát xuất từ các trò chơi của ngẫu nhiên hay một thuyết tiền định vật lý, thì “ý thức trách nhiệm của nó có nguy cơ giảm nhẹ trong các tâm trí”[96]. Một thuyết quy nhân lệch lạc không nhất thiết được nhường chỗ cho thuyết “quy sinh”, vì điều đó sẽ bao hàm việc đưa vào một sự bất quân bình mới chẳng những không giải quyết mà còn gây thêm các vấn đề khác nữa. Người ta không thể đòi hỏi từ con người một sự dấn thân tôn trọng đối với thế giới, nếu không công nhận và cùng lúc để cao các khả năng đặc biệt của nó như tri thức, ý chí, tự do và tinh thần trách nhiệm.
119. Việc phê phán chủ thuyết quy nhân lệch lạc cũng không được đưa vào bình diện thứ yếu giá trị các liên hệ giữa con người. Nếu cơn khủng hoảng môi sinh là sự phát lộ hay biểu hiện bên ngoài của cơn khủng hoảng luân lý, văn hóa và tinh thần của thời hiện đại, chúng ta không thể đòi hỏi chăm sóc mối liên hệ của chúng ta với thiên nhiên và môi trường, mà không lành mạnh hóa mọi liên hệ nền tảng của con người. Khi tư tưởng Kitô giáo đòi buộc một giá trị đặc biệt cho con người, giá trị cao hơn các thụ tạo khác, điều đó đưa đến việc tăng giá trị cho mỗi con người và kéo theo sự thừa nhận những kẻ khác. Việc mở lòng ra cho “một cái nhĩ” có khả năng biết, yêu và đối thoại, tiếp tục là sự cao quý lớn lao của con người, Vì thế, để có một liên hệ thích hợp với thế giới thụ tạo, thì không cần phải làm yếu đi chiều kích xã hội của con người cũng như chiều kích siêu việt của nó, sự mở lòng ra của nó cho “cái nhĩ” thần linh. Thật vậy, người ta không thể xem xét một mối liên hệ với môi trường tách biệt khỏi liên hệ với những người khác và với Thiên Chúa. Đó sẽ là một chủ nghĩa cá nhân lãng mạn, ngụy trang thành vẻ đẹp sinh thái học và là một sự đóng kín gây nghẹt thở trong chính mình.
120. Vì tất cả đều liên hệ với nhau, nên việc bảo vệ thiên nhiên cũng không tương hợp với việc biện minh cho chuyện phá thai. Một con đường giáo dục để đón nhận những người yếu đuối chung quanh chúng ta, mà đôi khi quấy rầy và không thích hợp, xem ra không thể thực hành nếu người ta không bảo vệ bào thai người, cho dẫu việc nó đến gây phiền toái và nhiều khó khăn. “Nếu cá nhân và xã hội mất đi sự nhạy cảm trong việc đón nhận một sự sống mới, lúc ấy, nhiều hình thức đón nhận khác mà hữu ích cho đời sống xã hội cũng bị khô cằn”[97].
121. Việc phát triển một tổng hợp mới vượt quá những biện chứng giả tạo của các thế kỷ gần đây đang treo lơ lửng. Chính Kitô giáo, khi giữ mình trung thành với căn tính của mình và với kho tàng chân lý mình đã nhận từ Đức Giêsu Kitô, luôn suy nghĩ lại về mình và diễn tả lại mình trong cuộc đối thoại với những hoàn cảnh lịch sử mới, và như thế làm nổi bật sự mới mẻ vĩnh cửu của mình. [98].
Thuyết duy tương đối thực tiễn
122. Một thuyết qui nhân sai lạc sinh ra một kiểu sống sai lạc. Trong Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui Tin Mừng, tôi đã nói đến chủ nghĩa duy tương đối thực tiễn vốn đặc trưng cho thời đại của chúng ta mà “còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa duy tương đối giáo thuyết” [99]. Khi tự đặt mình vào trung tâm, con người rốt cục ban tính ưu tiên tuyệt đối cho các quan tâm tùy hoàn cảnh của mình, và mọi cái còn lại đều trở thành tương đối. Vì thế, chẳng đáng ngạc nhiên chuyện cùng với sự hiện diện khắp nơi của mô hình kỹ trị và việc tôn thờ quyền lực vô hạn của con người, đang phát triển nơi con người thuyết duy tương đối ấy, vốn cho rằng tất cả những gì không trực tiếp phục vụ các lợi ích cá nhân tức thời thì chẳng quan trọng. Trong đó có một lô-gích giúp chúng ta hiểu rằng làm sao một vài thái độ gây suy thoái môi trường đồng thời gây suy thoái xã hội, lại nuôi sống cho nhau.
123. Văn hóa của chủ nghĩa duy tương đối là chính thứ bệnh lý đẩy con người đến chỗ khai thác tha nhân và đối xử với người đó như một đồ vật thuần túy, buộc họ lao động khổ sai hay biến họ thành nô lệ vì mang nợ. Đó chính là lô-gích thúc đẩy việc khai thác tình dục trẻ em hay bỏ rơi những người lớn tuổi chẳng còn phục vụ cho các lợi ích của mình. Đó cũng là lô-gích nội tâm của kẻ nói : “Chúng ta hãy để cho các sức mạnh vô hình của thị trường điều chỉnh kinh tế, vì các ảnh hưởng của nó trên xã hội và thiên nhiên là những thiệt hại không thể tránh được”. Nếu không có những chân lý khách quan cũng như những nguyên tắc vững chãi bên ngoài việc thực hiện các dự phóng cá nhân và sự thỏa mãn các nhu cầu tức thời – thì lúc ấy việc buôn người, tội phạm có tổ chức, việc buôn bán ma túy, buôn bán kim cương máu và da những con thú đang trên đường tuyệt chủng, có thể có những giới hạn nào? Chẳng phải chính lô-gích duy tương đối biện minh việc mua các cơ phận của những người nghèo để bán chúng hoặc dùng chúng làm thí nghiệm, hay biện minh việc loại bỏ các em bé, vì chúng không đáp ứng ước muốn của cha mẹ chúng sao? Chính lô-gích “dùng rồi quăng” tạo ra quá nhiều rác thải, chỉ vì điên cuồng khao khát tiêu thụ quá mức cần thiết thực sự. Vì thế, chúng ta không thể nghĩ rằng các dự án chính trị và sức mạnh luật pháp sẽ đủ để tránh những thái độ tác động lên môi trường, vì khi văn hóa biến chất và người ta không còn công nhận chân lý khách quan hay những nguyên tắc phổ quát giá trị nào, thì luật lệ chỉ được hiểu như những áp đặt độc đoán và như những chướng ngại cần lẩn tránh mà thôi.
Cần phải bảo vệ lao động
124. Trong bất cứ sự tiếp cận nào của một sinh thái học toàn vẹn không loại trừ con người, cần phải hội nhập giá trị của lao động, giá trị đã được thánh Gioan-Phaolô II khai triển cách khôn ngoan trong Thông điệp Laborem exercens. Chúng ta hãy nhớ lại rằng, theo trình thuật Thánh Kinh về sáng tạo, Thiên Chúa đã đặt con người vào khu vườn vừa mới tạo lập (x. St 2,15), không những để gìn giữ (bảo vệ) những gì hiện hữu, nhưng còn để chăm sóc sao cho nó sinh hoa kết quả. Như thế, những công nhân và những nghệ nhân “bảo đảm một sự sáng tạo vĩnh cửu” (Hc 38, 34 LXX). Trong thực tế, sự can thiệp của con người nhằm cẩn thận phát triển thụ tạo là hình thức tương xứng nhất để chăm sóc nó, vì bao hàm việc tự coi mình như công cụ của Thiên Chúa để giúp xuất hiện các khả năng mà chính Người đã đặt vào trong vạn vật : “Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu ; những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường” (Hc 38, 4).
125. Nếu chúng ta thử xét xem đâu là các tương quan thích đáng giữa con người với thế giới chung quanh, thì thấy ngay sự cần thiết phải có một quan niệm đúng đắn về lao động, vì nếu chúng ta nói về liên hệ của con người với vạn vật, sẽ xuất hiện câu hỏi về ý nghĩa và mục đích của hoạt động con người trên thực tại. Chúng ta không chỉ nói đến lao động chân tay hay lao động trên đất đai, nhưng đến mọi hoạt động bao hàm sự thay đổi nào đó đối với những gì hiện hữu, từ việc xây dựng một nghiên cứu xã hội cho đến dự án phát triển kỹ thuật. Bất cứ hình thức lao động nào cũng giả thiết một quan niệm về một liên hệ mà con người có thể hay phải thiết lập với đồng loại mình. Linh đạo Kitô giáo, với lòng thán phục chiêm ngắm tạo vật như chúng ta tìm thấy nơi thánh Phanxicô Assidi, cũng đã phát triển một sự hiểu biết phong phú và lành mạnh về lao động, như chúng ta có thể thấy, ví dụ, trong cuộc sống của chân phước Charles de Foucauld và các môn đệ của ngài.
126. Chúng ta cũng hãy thu nhận một cái gì đó từ truyền thống dài của lối sống đan tu. Lúc khởi đầu, một cách nào đó, lối sống này từng cổ vũ sự trốn chạy thế gian, thử tránh thoát sự suy đồi nơi thành thị. Vì thế tại sao các đan sĩ đã đi tìm hoang địa, vì xác tín rằng đấy là nơi thích hợp để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Sau đó, thánh Bênêđictô thành Nurcia đã đề nghị các tu sĩ của mình nên sống thành cộng đoàn, liên kết lời cầu nguyện và việc đọc sách thánh với lao động chân tay (“Ora et labora” – “Cầu nguyện và lao động”). Việc đưa vào lao động chân tay, thấm nhuần ý nghĩa thiêng liêng như thế, từng mang tính cách mạng. Người ta đã học cách tìm sự trưởng thành và sự thánh hóa trong việc kết hợp chiêm niệm với lao động. Cách thức sống lao động kiểu này khiến chúng ta chú tâm và tôn trọng môi trường hơn, làm cho mối liên hệ của chúng ta với thế giới thấm nhuần sự điều độ lành mạnh.
127. Chúng ta nói rằng “con người là tác giả, trung tâm và mục đích tất cả đời sống kinh tế-xã hội” [100]. Dù vậy, khi khả năng chiêm ngắm và tôn trọng bị hư hoại nơi con người, các điều kiện liền được tạo ra để làm ý nghĩa lao động bị biến dạng [101]. Phải luôn nhớ rằng, con người có “khả năng trở thành tác nhân có trách nhiệm cho sự thoải mái vật chất của mình, cho tiến bộ luân lý và sự triển nở thiêng liêng của mình” [102]. Lao động phải là nơi của sự phát triển cá nhân đa dạng ấy, nơi nhiều chiều kích cuộc sống có liên quan: óc sáng tạo, sự phóng chiếu về tương lai, việc phát triển các khả năng, việc thực hành các giá trị, sự thông giao với kẻ khác, một thái độ thờ phượng. Vì thế, trong thực tế xã hội toàn cầu hiện thời, bên kia các lợi ích hạn chế của các doanh nghiệp và một tính hợp lý kinh tế đáng bàn cãi, “người ta cần tiếp tục xem việc mọi người có được việc làm là mục tiêu ưu tiên” [103].
128. Chúng ta được mời gọi lao động từ khi được tạo dựng. Người ta chớ tìm cách cho tiến bộ kỹ thuật ngày càng thay thế lao động con người, vì như thế, chính nhân tính sẽ hư hỏng. Lao động là một điều cần thiết, là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, đường đi đến trưởng thành, phát triển con người và thể hiện bản thân. Trong chiều hướng ấy, giúp người nghèo tiền bạc phải luôn là một giải pháp tạm thời để đương đầu với những trường hợp khẩn cấp. Mục tiêu lớn nên luôn là giúp cho họ có một đời sống xứng đáng nhờ lao động. Thế nhưng chiều hướng kinh tế đã cổ vũ một kiểu tiến triển kỹ thuật nhằm giảm thiểu các chi phí sản xuất bằng cách giảm bớt các chỗ làm vốn được thay bằng máy móc. Đây là một minh họa thêm nữa về cách mà hoạt động của con người có thể quay ra chống lại chính họ. Việc giảm bớt chỗ làm “cũng có một tác động tiêu cực trên bình diện kinh tế ngang qua việc xói mòn dần dần “tư bản xã hội”, nghĩa là toàn bộ các liên hệ tín nhiệm, tin cậy và tôn trọng các quy tắc cần thiết cho mọi cuộc sống chung dân sự” [104]. Rốt cục, “phí tổn con người cũng luôn là phí tổn kinh tế, và những rối loạn chức năng kinh tế luôn kéo theo những phí tổn con người” [105]. Ngưng đầu tư vào con người để đạt lợi nhuận tức thời hơn là một chuyện kinh doanh rất xấu cho xã hội.
129. Để có thể tạo công ăn việc làm, cần kích thích một nền kinh tế cổ vũ sự đa dạng sản xuất và sự sáng tạo trong kinh doanh. Ví dụ có rất nhiều hệ thống cung cấp lương thực nông thôn với quy mô nhỏ đang tiếp tục nuôi sống phần lớn dân số toàn cầu, bằng cách sử dụng một tỷ lệ nhỏ đất lẫn nước, và ít sinh ra rác thải, dù đó là trên những mảnh ruộng lúa, vườn cây bé tí, hay đặc biệt nhờ săn bắn, hái lượm và đánh cá thủ công. Những nền kinh tế quy mô, đặc biệt trong lãnh vực nông nghiệp, rốt cục buộc các nông dân nhỏ phải bán đất hay phải bỏ lối canh tác truyền thống của họ. Những cố gắng của một số người để phát triển các hình thức sản xuất đa dạng khác, cuối cùng cũng nên vô ích vì gặp nhiều khó khăn trong việc bước vào các thị trường khu vực hay toàn cầu, hay vì hạ tầng cơ sở buôn bán và chuyên chở chỉ phục vụ cho các doanh nghiệp lớn. Các nhà chức trách có quyền và trách nhiệm đưa ra nhiều biện pháp để nâng đỡ rõ ràng và vững chắc cho các nhà sản xuất nhỏ và cho việc sản xuất đa dạng. Để có một tự do kinh tế mà tất cả mọi người thực sự hưởng được, đôi khi có thể cần đặt nhiều giới hạn cho những kẻ có nhiều phương tiện và quyền lực tài chính hơn. Một tự do kinh tế chỉ nói thật to đang khi các điều kiện thực tế lại ngăn chận nhiều người tiếp cận nó cách cụ thể và chuyện có được việc làm trở nên xấu đi, thì tự do kinh doanh ấy trở thành một bài diễn văn mâu thuẫn, bôi nhọ chính trị. Hoạt động kinh doanh vốn là một ơn gọi cao quí hướng về việc sản xuất của cải và cải thiện thế giới cho mọi người, có thể là một cách thức rất phong phú để kích thích sự phát triển cho vùng nơi nó lập các dự án của mình; nhất là khi người ta hiểu rằng việc tạo các chỗ làm là một phần không thể tránh của việc nó phục vụ công ích.
Canh tân sinh học từ việc nghiên cứu
130. Trong nhãn quan triết học và thần học về sự sáng tạo mà tôi đã tìm cách đề nghị, rõ ràng là con người, với lý trí và hiểu biết đặc thù của mình, không phải là một tác nhân bên ngoài, phải hoàn toàn bị loại bỏ. Tuy nhiên, dẫu con người có thể can thiệp lên thế giới thực vật và động vật và sử dụng chúng khi cần thiết cho sự sống của mình, sách Giáo lý dạy rằng các thí nghiệm trên thú vật đều chính đáng chỉ khi nào “chúng nằm trong các giới hạn hợp lý và góp phần vào việc chăm sóc hay cứu thoát nhân mạng” [106]. Sách Giáo lý mạnh mẽ nhắc lại rằng quyền lực con người có nhiều giới hạn và rằng “hành động làm đau đớn và giết thú vật một cách vô ích, đi ngược lại phẩm giá con người” [107]. Mọi việc sử dụng hay thí nghiệm “đòi buộc phải có một sự tôn trọng mang tính tôn giáo đối với sự toàn vẹn của tạo vật” [108].
131. Tôi muốn lấy lại ở đây lập trường quân bình của thánh Gioan-Phaolô II là nêu bật những thiện ích của các tiến bộ khoa học và kỹ thuật vốn “biểu lộ sự cao quí của ơn gọi con người là tham gia cách có trách nhiệm vào hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa trong thế giới”. Nhưng đồng thời ngài đã nhắc nhớ rằng “không một sự can thiệp nào vào một lãnh vực của hệ sinh thái được miễn cho nó khỏi chú ý đến các hậu quả của nó trên những lãnh vực khác” [109]. Ngài từng nhấn mạnh rằng Giáo hội đánh giá cao sự đóng góp của “việc nghiên cứu và áp dụng sinh học phân tử, được bổ túc bằng nhiều môn khác như di truyền học và việc áp dụng nó như kỹ thuật trong nông nghiệp và công nghiệp” [110], cho dẫu ngài cũng quả quyết rằng “điều đó không được đưa đến một thao tác di truyền học bất phân biệt” [111], chẳng biết đến các hậu quả tiêu cực của những can thiệp ấy. Không thể nào kềm hãm sức sáng tạo của con người. Nếu người ta không thể cấm một nghệ sĩ phô bày khả năng sáng tác của mình, thì người ta cũng không thể ức chế những ai có nhiều khả năng đặc biệt để phát triển khoa học và kỹ thuật, tức là các khả năng Thiên Chúa đã ban để phục vụ tha nhân. Đồng thời người ta cũng không thể ngưng xác định luôn mãi hơn nữa các mục tiêu, các hiệu quả, bối cảnh và các giới hạn luân lý của hoạt động nhân loại ấy, vốn là một hình thức quyền lực bao hàm nhiều rủi ro cao.
132. Chính trong khung cảnh ấy mà ta nên đặt mọi suy tư chung quanh sự can thiệp của con người trên thực vật và động vật –mà hôm nay bao hàm nhiều biến đổi mang tính di truyền do công nghệ sinh học– trong mục đích khai thác các khả năng hiện diện trong thực tại vật chất. Việc đức tin tôn trọng lý trí đòi hỏi phải chú tâm đến cái mà chính khoa sinh học, được phát triển cách độc lập đối với lợi ích kinh tế, có thể chỉ dạy về các cơ cấu sinh học cũng như về các khả năng và các đột biến của chúng. Dù sao đi nữa, sự can thiệp chính đáng là sự can thiệp tác động lên tự nhiên “để giúp nó triển nở theo đường hướng của mình, đường hướng của sáng tạo, đường hướng do Thiên Chúa muốn” [112]
133. Thật khó để đưa ra một phán quyết chung về những phát triển trong việc chuyển đổi gen (OGM) thực vật hay động vật, cho những mục đích y học hay nông súc, vì chúng có thể rất khác nhau giữa chúng và đòi hỏi những cân nhắc khác nhau. Mặt khác, các nguy cơ không luôn luôn do chính kỹ thuật, nhưng do việc áp dụng nó không thích hợp hay quá đáng. Trong thực tế, các đột biến gen đã thường và rất thường là do tự nhiên sinh ra. Ngay cả những đột biến do sự can thiệp của con người gây ra cũng không phải là một hiện tượng mới mẻ. Việc thuần dưỡng các động vật, việc lai giống giữa các loài và nhiều thực hành xa xưa mà được mọi người chấp nhận đều có thể đi vào trong những cân nhắc ấy. Phải nhớ rằng khởi điểm cho những phát triển khoa học về ngũ cốc chuyển đổi gen đã là việc quan sát một vi khuẩn sản xuất cách tự nhiên và tự động một thay đổi bộ gen của một thảo mộc. Nhưng trong thiên nhiên, các quá trình này có một nhịp điệu chậm, không thể so sánh với sự nhanh chóng mà các tiến bộ kỹ thuật hiện thời áp đặt, ngay cả khi các bước tiến này tiếp nối một sự phát triển khoa học của nhiều thế kỷ.
134. Dù thiếu những bằng chứng không thể bác bỏ về sự tổn thất mà các loài ngũ cốc chuyển gen có thể gây ra cho con người, và cho dù trong một vài vùng, việc sử dụng chúng là nguồn gốc cho một sự tăng trưởng kinh tế giúp giải quyết nhiều vấn đề, vẫn có nhiều khó khăn lớn lao không thể được tương đối hóa. Tại nhiều nơi, sau khi đưa vào những lối canh tác ấy, người ta nhận thấy một sự tập trung đất đai sản xuất vào tay một số ít người, do “việc biến mất dần dần những nhà sản xuất nhỏ; những người này, vì mất đất đai khai thác được, thấy mình bị buộc phải rút khỏi việc sản xuất trực tiếp” [113] Những người yếu đuối nhất trở thành những lao động bấp bênh, và nhiều công nhân nông nghiệp cuối cùng phải di trú đến những khu đô thị nghèo khổ. Việc mở mang diện tích các khu canh tác ấy phá hủy mạng lưới phức tạp của các hệ sinh thái, làm giảm đi sự đa dạng sản xuất và ảnh hưởng đến hiện tại lẫn tương lai của các nền kinh tế vùng. Trong nhiều nước, người ta thấy một xu hướng phát triển các thị trường độc quyền trong việc sản xuất các hạt giống và nhiều sản phẩm khác cần thiết cho việc trồng tỉa chúng, và sự lệ thuộc còn trầm trọng hơn với việc sản xuất các hạt giống vô sinh mà cuối cùng buộc các nông dân phải mua chúng nơi các doanh nghiệp sản xuất.
135. Hẳn rằng cần có một sự chú tâm liên tục khiến ta xem xét mọi phương diện luân lý liên hệ. Vì thế cần phải bảo đảm một cuộc thảo luận khoa học và xã hội đầy tránh nhiệm và rộng rãi, có khả năng quan tâm đến tất cả thông tin khả dụng và gọi sự vật theo đúng tên của chúng. Đôi khi, người ta không sử dụng mọi thông tin mà lại chọn lọc chúng theo những mối lợi riêng, mối lợi chính trị, kinh tế hay ý thức hệ. Từ đó khó đưa ra một đánh giá quân bình và thận trọng về những vấn đề khác nhau, bằng cách quan tâm đến mọi thông số có căn cứ. Cần phải có nhiều không gian thảo luận trong đó những ai, cách nào đó, có thể trực tiếp hay gián tiếp liên can (người trồng trọt, người tiêu thụ, các giới chức, các nhà khoa học, các người sản xuất hạt giống, các cư dân sống gần những cách đồng đã được xử lý và nhiều hạng người khác) có thể trình bày những vấn đề của họ hay tiếp cận được thông tin trọn vẹn và đáng tin để đưa ra nhiều quyết định có lợi cho công ích hiện tại và tương lai. Đây là một vấn đề môi trường phức tạp mà việc xử lý đòi hỏi một cái nhìn toàn vẹn dưới mọi phương diện của nó, và điều này ít nhất yêu cầu một nỗ lực lớn hơn để tài trợ các đường hướng nghiên cứu độc lập và liên ngành, có khả năng đem lại một ánh sáng mới mẻ.
136. Mặt khác, cũng khiến bận lòng việc một vài phong trào sinh thái vốn bảo vệ sự toàn vẹn của môi trường và đòi cách hợp lý một vài giới hạn cho việc nghiên cứu khoa học, đôi khi vẫn không áp dụng nguyên tắc ấy cho sự sống con người. Cách chung, người ta biện minh sự vượt qua mọi giới hạn khi làm nhiều thí nghiệm trên các bào thai người còn sống. Người ta quên rằng giá trị bất khả nhượng của con người nằm bên kia cấp bậc phát triển của nó. Vả lại, khi kỹ thuật bất biết các nguyên tắc luân lý lớn lao, rốt cục sẽ coi bất cứ thực hành nào đều hợp pháp cả. Như chúng ta đã thấy trong chương này, kỹ thuật tách rời luân lý sẽ khó có khả năng tự giới hạn quyền lực của mình.