Chương sáu: Giáo dục và linh đạo môi sinh
CHƯƠNG SÁU
GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO MÔI SINH
202. Nhiều điều phải được định hướng lại, nhưng trước tiên nhân loại cần thay đổi. Cần có ý thức về một nguồn gốc chung, một sự thuộc về nhau và một tương lai được chia sẻ bởi tất cả. Ý thức căn bản này sẽ cho phép phát triển nhiều xác tín, thái độ và hình thức sống mới. Như thế là nổi rõ một thách thức văn hoá, tinh thần và giáo dục lớn lao, vốn sẽ giả thiết nhiều tiến trình tái sinh lâu dài.
I. TIN VÀO MỘT KIỂU SỐNG KHÁC
203. Xét rằng thị trường luôn có khuynh hướng tạo ra một cơ chế sính tiêu thụ mang tính cưỡng bức để bán các sản phẩm của nó, cuối cùng con người bị chìm vào trong một vòng xoáy mua bán và chi tiêu vô ích. Chủ thuyết tiêu thụ ám ảnh là phản ảnh chủ quan của mô hình kỹ thuật-kinh tế. Romano Guardini đã từng báo trước chuyện này: con người “chấp nhận các vật thông dụng và các hình thức sống được áp đặt cho mình bởi các kế hoạch hợp lý và các sản phẩm tiêu chuẩn hóa của máy móc, và nói chung, nó chấp nhận với cảm giác rằng tất cả cái đó là hợp lý và đúng đắn” [144]. Mô hình đó làm cho tất cả tin tưởng rằng mình tự do, bao lâu họ có một cái gọi là tự do để tiêu thụ, đang khi những kẻ có tự do thực sự chính là những kẻ làm nên một thiểu số nắm quyền lực về kinh tế và tài chính. Trong sự mơ hồ này, nhân loại thời hậu hiện đại đã không tìm được một quan niệm mới về chính mình mà có thể hướng dẫn họ, và sự thiếu căn tính ấy được cảm nghiệm với lo âu. Chúng ta có quá nhiều phương tiện cho một vài mục tiêu hạn hẹp và còi cọc.
204. Hoàn cảnh hiện tại của thế giới “tạo một cảm giác bấp bênh và bất an, mà đến lượt nó, lại nuôi dưỡng nhiều hình thức ích kỷ tập thể” [145]. Khi con người trở nên tự quy và nhốt mình trong ý thức riêng của mình, họ gia tăng lòng ham hố. Thật thế, trái tim con người càng trống rỗng bao nhiêu, nó sẽ cần rất nhiều vật để mua, để chiếm hữu và để tiêu thụ bấy nhiêu. Trong bối cảnh ấy, xem ra một người khó có thể chấp nhận rằng thực tại ấn định nhiều giới hạn cho mình. Với tầm nhìn ấy, một công ích thực sự cũng không còn hiện hữu. Nếu chính loại chủ thể ấy có khuynh hướng lấn át trong một xã hội, thì các quy tắc sẽ chỉ được tôn trọng trong chừng mực chúng không đi ngược lại các nhu cầu cá nhân. Vì thế, chúng ta không những nghĩ đến khả năng có những hiện tượng khí hậu khủng khiếp hay đến những thảm hoạ thiên nhiên lớn lao, nhưng còn đến những tai biến phát xuất từ các cơn khủng hoảng xã hội, vì nỗi ám ảnh về một kiểu sống duy tiêu thụ sẽ chỉ có thể gây nên bạo lực và hủy diệt lẫn nhau, nhất là khi một nhóm nhỏ có thể cho phép mình sống như vậy.
205. Tuy nhiên, mọi cái không mất hết, vì loài người, vốn có khả năng suy thoái đến cực điểm, cũng có thể vượt lên chính mình, tái lựa chọn điều thiện và chấn hưng mình lại, vượt lên mọi yếu tố điều kiện hóa về tinh thần và xã hội mà người ta áp đặt lên họ. Họ có khả năng tự nhìn chính mình với sự thành thật, bày tỏ nỗi chán ngán của mình cách công khai và đi vào những con đường mới, hướng đến tự do đích thực. Không có hệ thống nào tiêu diệt hoàn toàn việc mở lòng cho thiện, chân, mỹ, cũng như khả năng phản ứng mà Thiên Chúa tiếp tục khuyến khích từ sâu thẳm trái tim con người. Tôi xin mỗi người trong thế giới này đừng quên phẩm giá của mình, phẩm giá mà không gì có quyền cất đi được.
206. Một cuộc thay đổi trong các kiểu sống có thể đạt đến việc thực thi một áp lực lành mạnh lên những ai nắm giữ quyền lực chính trị, kinh tế và xã hội. Đó là điều xảy ra khi các phong trào những kẻ tiêu thụ khiến được người ta không còn mua một số sản phẩm, và như thế trở nên hữu hiệu để thay đổi thái độ của các doanh nghiệp, bằng cách ép buộc họ phải suy nghĩ về tác động môi trường và các mô hình sản xuất. Đây là một sự kiện, khi các thói quen của xã hội ảnh hưởng trên lợi nhuận của các doanh nghiệp, khiến họ thấy mình phải sản xuất cách khác. Điều ấy nhắc cho chúng ta nhớ đến trách nhiệm xã hội của những người tiêu thụ. “Mua không những là một hành vi kinh tế, nhưng cũng luôn là một hành vi đạo đức” [146]. Vì thế hiện nay, “đề tài suy thoái môi trường đặt lại vấn để các thái độ của từng người trong chúng ta” [147].
207. Hiến chương Trái đất từng mời gọi tất cả chúng ta quay lưng lại với một giai đoạn tự hủy và làm một bước khởi hành mới, nhưng chúng ta đã chưa phát triển một ý thức hoàn vũ để thực hiện việc này. Vì thế, tôi mạnh dạn tái đề nghị thách thức tốt đẹp ấy: “Như chưa bao giờ có trong lịch sử trước đây, định mệnh chung của chúng ta mời gọi chúng ta tìm một khởi đầu mới […] Chúng ta hãy làm sao cho thời đại của mình được lịch sử thừa nhận như thời đại thức tỉnh một hình thức tôn trọng sự sống mới mẻ, một quyết định vững chắc đạt tới sự lâu bền, thời đại gia tăng cuộc chiến đấu cho công lý, hòa bình, cũng như biểu dương sự sống cách tốt đẹp” [148].
208. Vẫn luôn luôn có thể tái phát triển khả năng ra khỏi mình để đến với kẻ khác. Thiếu khả năng này, người ta không thể nhận ra giá trị đặc thù của các tạo vật khác, không chú tâm bảo vệ một cái gì đó cho những kẻ khác, không có khả năng tự xác định những giới hạn để tránh đau khổ hay hủy hoại cho những gì bao quanh chúng ta. Thái độ cơ bản để vượt lên chính mình, bằng cách đoạn tuyệt với sự cô lập của ý thức và sự tự quy, là gốc rễ cho phép mọi sự quan tâm đến kẻ khác và môi trường, cũng như làm phát sinh phản ứng luân lý là quan tâm tới ảnh hưởng mà mỗi hành động và mỗi quyết định cá nhân gây ra bên ngoài mình. Khi chúng ta có khả năng vượt qua chủ nghĩa cá nhân, một kiểu sống khác mới có thể tự phát triển và một sự thay đổi quan trọng trở thành khả dĩ trong xã hội.
II. GIÁO DỤC CHO MỘT SỰ LIÊN KẾT GIỮA NHÂN LOẠI VÀ MÔI TRƯỜNG
209. Ý thức về sự trầm trọng của cơn khủng hoảng văn hoá và môi sinh phải diễn ra thành những thói quen mới. Nhiều người biết rằng tiến bộ hiện thời cũng như việc tích lũy đơn thuần các đồ vật hay lạc thú, không đủ đem lại một ý nghĩa lẫn niềm vui cho tâm hồn con người, nhưng họ không cảm thấy có khả năng từ chối cái mà thị trường cống hiến cho họ. Trong những nước vốn phải thực hiện các thay đổi lớn nhất về thói quen tiêu thụ, giới trẻ có một sự nhạy cảm sinh thái mới và một tinh thần quảng đại, một vài người trong số họ chiến đấu cách đáng phục cho việc bảo vệ môi trường; nhưng họ đã lớn lên trong một bối cảnh tiêu thụ và tiện nghi quá lớn lao khiến khó phát triển những thói quen khác. Vì thế, chúng ta đứng trước một thách thức về giáo dục.
210. Việc giáo dục về môi trường đã dần dần mở rộng phạm vi các mục tiêu của mình. Nếu ban đầu nó đã rất hướng đến thông tin khoa học, cũng như đến sự nhạy cảm và sự phòng ngừa các nguy cơ môi trường, nay thì nền giáo dục này có khuynh hướng bao gồm một sự phê phán các “huyền thoại” của thời hiện đại (chủ nghĩa cá nhân, tiến bộ bất định, cạnh tranh giành giật, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường vô luật), những huyền thoại dựa trên lý do (mọi sự là) dụng cụ; nó cũng có khuynh hướng mở rộng sang các mức độ khác nhau của sự cân bằng sinh thái: mức độ nội tại với chính mình, mức độ liên đới với những người khác, mức độ tự nhiên với mọi sinh vật và mức độ thiêng liêng với Thiên Chúa. Việc giáo dục môi trường nên chuẩn bị cho chúng ta làm cái bước nhảy sang Mầu nhiệm như thế, từ đó một luân lý môi sinh mới đạt được ý nghĩa sâu xa nhất của mình. Mặt khác, nhiều nhà giáo dục có khả năng suy nghĩ lại các lộ trình sư phạm của một nền luân lý môi sinh, sao cho học sinh lớn lên thực sự trong liên đới, trong trách nhiệm và trong việc bảo vệ dựa trên lòng thương xót.
211. Tuy nhiên, nền giáo dục ấy, vì có ơn gọi tạo ra một tính “công dân sinh thái”, nên đôi khi tự giới hạn mình vào việc thông tin, và không đạt được việc phát triển nhiều thói quen. Sự hiện hữu các luật lệ và quy tắc không đủ để giới hạn các thái độ xấu về lâu về dài, cho dù có một sự kiểm soát hữu hiệu. Để cho quy tắc pháp lý sinh ra nhiều hiệu quả quan trọng và lâu dài, cần phần lớn thành viên trong xã hội chấp nhận nó nhờ nhiều động lực thích hợp, và phản ứng từ một sự thay đổi cá nhân. Chỉ từ việc vun đắp những nhân đức vững vàng mà việc tự hiến trong một sự dấn thân sinh thái mới khả thể. Nếu một người có thói quen mặc ấm hơn chút thay vì đốt lò sưởi, đang khi hoàn cảnh kinh tế đương sự cho phép đương sự tiêu thụ và xài phí hơn, điều này giả thiết rằng đương sự đã tích hợp nhiều xác tín và tâm tình thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường. Chu toàn bổn phận bảo vệ tạo vật nhờ vào những hành động nho nhỏ thường ngày là rất cao cả, và thật tuyệt diệu khi nền giáo dục có khả năng khơi gợi những hành động này, đến độ biến chúng nên một kiểu sống. Việc giáo dục trách nhiệm về môi trường có thể khuyến khích nhiều thái độ khác nhau có một ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng lên việc bảo vệ môi trường, chẳng hạn tránh sử dụng chất nhựa và giấy, giảm thiểu việc tiêu thụ nước, phân loại các rác thải, chỉ nấu nướng cái mình sẽ có thể ăn cách hợp lý, đối xử với các sinh vật khác với sự lưu tâm, sử dụng các phương tiện giao thông công cộng và chia sẻ cùng một chiếc xe với nhiều người, trồng cây, tắt ánh sáng không cần thiết. Tất cả những điều đó đều nằm trong một óc sáng tạo quảng đại và thích đáng, cho thấy cái tốt nhất của con người. Việc sử dụng lại một cái gì đó thay vì nhanh chóng quăng đi, vì người ta được thúc đẩy bởi nhiều động lực sâu xa, có thể là một hành vi tình yêu biểu lộ phẩm giá chúng ta.
212. Đừng nghĩ rằng những nỗ lực ấy sẽ không thay đổi thế giới. Những hành động này gieo rắc trong xã hội một điều thiện hảo luôn sản sinh nhiều hoa trái vượt quá những gì người ta có thể nhận ra được, vì chúng tạo nên trên trái đất này một điều thiện hảo có khuynh hướng lan truyền mãi, đôi khi cách vô hình. Ngoài ra, việc phát triển các thái độ ấy tái ban cho chúng ta cảm thức về chính phẩm giá của mình, khiến chúng ta sống sâu xa hơn, cho phép chúng ta kinh nghiệm rằng đáng bỏ công đi qua thế gian này.
213. Các môi trường giáo dục rất khác nhau: học đường, gia đình, các phương tiện truyền thông, lớp giáo lý v.v… Một nền giáo dục học đường tốt thì ngay từ thời niên thiếu, đã gieo nhiều hạt giống có khả năng sinh nhiều hiệu quả suốt một cuộc đời. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng trung tâm của gia đình, vì “đó là nơi mà sự sống, hồng ân của Thiên Chúa, có thể được đón nhận cách thích hợp và được bảo vệ khỏi những tấn công mà nó phải đối mặt, và là nơi nó có thể được phát triển theo những đòi hỏi của một sự tăng trưởng nhân bản đích thật. Chống lại cái mà người ta coi là văn hoá sự chết, gia đình làm nên nôi của văn hoá sự sống” [149] Trong gia đình, người ta rèn luyện những phản ứng đầu tiên của tình yêu và sự bảo vệ cuộc sống, ví dụ việc sử dụng đúng đắn các vật dụng, trật tự và sạch sẽ, tôn trọng hệ sinh thái địa phương và bảo vệ mọi sinh vật thụ tạo. Gia đình là nơi của sự huấn luyện trọn vẹn, nơi diễn ra những khía cạnh khác nhau, liên hệ mật thiết với nhau, của sự trưởng thành cá nhân. Trong gia đình, người ta học xin phép với lòng tôn kính, học nói “cám ơn” như biểu hiện một sự đánh giá đúng những gì người ta lãnh nhận, học chế ngự tính gây gổ và tính háu ăn, học xin lỗi khi người ta gây một thiệt hại. Những cử chỉ nhỏ ấy của thói lịch thiệp nhã nhặn chân thành giúp xây dựng một văn hoá của cuộc sống được chia sẻ và của sự tôn trọng đối với những gì bao quanh chúng ta.
214. Một nỗ lực nhạy cảm hóa dân chúng thuộc về chính trị và các hiệp hội khác nhau. Và cũng thuộc về Giáo hội nữa. Mọi cộng đoàn Kitô hữu có một vai trò quan trọng phải đóng trong việc giáo dục này. Tôi cũng hy vọng trong các chủng viện và các nhà đào tạo của dòng tu, người ta giáo dục một sự khắc khổ có trách nhiệm, sự chiêm ngắm thế giới với lòng biết ơn, việc bảo vệ sự mong manh yếu đuối của người nghèo và của môi trường. Xét vì tầm quan trọng của những gì đang lâm nguy, thì cũng như các định chế được ban quyền lực đều cần thiết để trừng phạt những tấn công vào môi trường, chúng ta cũng cần kiểm soát mình và giáo dục nhau.
215. Trong bối cảnh ấy, “chớ xem nhẹ mối liên hệ vốn có giữa việc huấn luyện thẩm mỹ thích hợp với việc bảo vệ môi trường” [150]. Chú ý đến vẻ đẹp và yêu mến nó sẽ giúp chúng ta ra khỏi chủ nghĩa thực dụng vị lợi. Khi một người không học biết dừng lại để quan sát và đánh giá cái gì xinh đẹp, thì chẳng lạ gì đối với đương sự, tất cả trở thành đối tượng sử dụng và lạm dụng không chút ngại ngùng. Đồng thời, nếu người ta muốn có được nhiều thay đổi sâu xa, phải luôn nhớ rằng các mô hình tư tưởng ảnh hưởng thực sự lên các thái độ. Nền giáo dục sẽ vô hiệu và những nỗ lực của nó sẽ vô ích, nếu nó cũng không cố gắng phổ biến một mô hình mới liên hệ tới con người, cuộc sống, xã hội và mối tương quan với thiên nhiên. Bằng không, mô hình duy tiêu thụ, do các phương tiện truyền thông và mạng lưới hữu hiệu của thị trường, sẽ tiếp tục tiến triển.
III. HOÁN CẢI MÔI SINH HỌC
216. Gia sản phong phú của linh đạo Kitô giáo, phát sinh do hai mươi thế kỷ kinh nghiệm cá nhân và cộng đoàn, cống hiến một sự đóng góp tốt đẹp cho nỗ lực canh tân nhân loại. Tôi muốn đề ra với các Kitô hữu vài dòng về một linh đạo môi sinh, bắt nguồn từ trong các xác tín của đức tin chúng ta, vì điều Tin Mừng dạy chúng ta có nhiều hậu quả đến cách thức suy tư, cảm nhận và sinh sống của chúng ta. Đây không nhắm nói về bao ý tưởng, nhưng đặc biệt về các động lực xuất phát từ linh đạo để nuôi dưỡng niềm đam mê bảo vệ thế giới. Thật thế, sẽ không thể dấn thân trong những việc lớn chỉ với nhiều giáo thuyết mà không có một thần bí học sinh động chúng ta, không có “những động lực bên trong thúc đẩy, khuyến khích và ban ý nghĩa cho hành động cá nhân lẫn cộng đoàn” [151]. Chúng ta, các Kitô hữu, phải thừa nhận rằng mình đã không luôn luôn thu lấy và phát triển những điều phong phú mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội, trong đó linh đạo không tách rời khỏi thể xác chúng ta cũng như khỏi thiên nhiên hay các thực tại của trần thế này; đúng ra linh đạo được sống với chúng và nơi chúng, trong sự hiệp thông với tất cả những gì bao quanh chúng ta.
217. Nếu đúng là “các sa mạc bên ngoài gia tăng trong thế giới chúng ta, vì các sa mạc bên trong đã thành quá lớn” [152], cơn khủng hoảng môi trường là một lời kêu gọi hoán cải nội tâm sâu xa. Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một số Kitô hữu dấn thân và cầu nguyện, có thói quen cười cợt các mối quan tâm về môi trường với lý cớ đó là chủ nghĩa duy thực và duy thực dụng. Một số khác thụ động, không quyết định thay đổi các thói quen và trở thành phi nhất quán. Như vậy họ cần một sự hoán cải môi sinh học, bao hàm việc để cho mọi hậu quả từ cuộc gặp gỡ của họ với Đức Giêsu Kitô tràn ra trên các mối quan hệ với thế giới bao quanh họ. Sống ơn gọi làm kẻ bảo vệ cho công trình của Thiên Chúa là một phần thiết yếu của một đời sống đạo đức; đó không phải là một cái gì tùy chọn, cũng chẳng phải là một phương diện thứ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo.
218. Để đề nghị một mối tương quan lành mạnh với tạo vật như chiều kích cuộc hoán cải trọn vẹn của con người, chúng ta hãy nhớ lại gương thánh Phanxicô Assidi. Điều này cũng bao hàm việc thừa nhận những sai lầm, tội lỗi, tật xấu hoặc chểnh mảng của mình và sám hối thật lòng, thay đổi nội tâm. Các Giám Mục Úc Châu đã biết diễn tả sự hoán cải theo ý nghĩa hoà giải với tạo vật: “Để thực hiện sự sám hối này, chúng ta phải xem xét cuộc sống mình và thừa nhận rằng cách nào đó chúng ta đang xúc phạm tạo vật của Thiên Chúa, bằng các hành động cũng như bằng sự bất lực hành động của chúng ta. Chúng ta phải cảm nghiệm một sự sám hối, một sự thay đổi tâm hồn” [153].
219. Tuy nhiên, việc mỗi người tu tỉnh để tháo gỡ một hoàn cảnh quá phức tạp như hoàn cảnh mà thế giới ngày nay phải đối mặt thật sự không đủ. Các cá nhân đơn độc có thể đánh mất khả năng cũng như sự tự do của mình, để vượt lên lô-gich của lý do (mọi sự là) dụng cụ, và cuối cùng trôi theo một chủ thuyết tiêu thụ vô luân lý và vô chiều kích xã hội lẫn môi trường. Với những vấn đề xã hội, người ta phải đáp ứng bằng nhiều mạng lưới cộng đồng chứ không phải bằng sự tổng cộng đơn giản các việc tốt cá nhân: “Những đòi hỏi của công trình này bao la đến độ các khả năng của sáng kiến cá nhân và sự cộng tác của nhiều người được huấn luyện theo các nguyên tắc vị kỷ sẽ không thể đáp ứng. Chỉ có một thái độ khác mới gây nên sự liên kết các sức mạnh cần thiết và sự thống nhất việc thực hiện” [154]. Sự hoán cải sinh thái học cần có để tạo nên một động năng thay đổi lâu bền cũng là một hoán cải tập thể.
220. Sự hoán cải ấy giả thiết nhiều thái độ khác nhau, vốn kết hợp với nhau để cổ vũ một sự bảo vệ môi trường cách quảng đại và đầy âu yếm. Trước tiên, nó bao hàm sự biết ơn và sự nhưng không, nghĩa là nhận ra thế giới như ân huệ lãnh nhận từ tình yêu của Cha, điều này gây nên hậu quả là có nhiều thái độ từ bỏ và thái độ quảng đại, cả khi chẳng ai nhìn thấy hoặc công nhận: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm […] Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,3-4). Sự hoán cải này cũng bao hàm ý thức yêu mến là không tách rời với những thụ tạo khác, là làm thành với các hữu thể khác của vũ trụ một sự hiệp thông hoàn vũ tốt đẹp. Đối với tín hữu, thế giới không được chiêm ngắm từ bên ngoài nhưng từ bên trong, bằng cách thừa nhận các mối dây qua đó Cha nối kết chúng ta với mọi hữu thể. Ngoài ra, bằng cách làm tăng trưởng các khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho mình, sự hoán cải sinh thái học dẫn tín hữu đến chỗ phát triển óc sáng tạo và sự nhiệt tình của mình để đương đầu với các thảm kịch của thế giới bằng cách hiến thân cho Thiên Chúa “như một của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Người” (Rm 12,1). Tín hữu không hiểu sự vượt trổi của mình như cớ vinh vang cá nhân hay thống trị vô trách nhiệm, nhưng như một khả năng khác, áp đặt cho mình một trách nhiệm nặng nề, xuất phát từ đức tin của mình.
221. Nhiều xác tín khác nhau của đức tin chúng ta được khai triển từ đầu Thông điệp này, giúp phong phú hóa ý nghĩa cuộc hoán cải ấy, như là ý thức rằng mỗi thụ tạo đều phản ánh một cái gì đó của Thiên Chúa và có một sứ điệp để dạy chúng ta; hay còn là tin vững rằng Đức Kitô đã đảm nhận trong chính mình thế giới vật chất này và hiện giờ, như Đấng Phục Sinh, Người cư ngụ trong đáy từng hữu thể, ôm lấy nó bằng sự âu yếm của Người, cũng như thấm nhập nó bằng ánh sáng của Người; và cũng là xác tín rằng Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới mà khắc ghi trong nó một trật tự và một động năng mà con người không có quyền bất biết. Khi đọc trong Tin Mừng rằng nhắc đến loài chim, Chúa Giêsu nói “không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,6), người ta sẽ còn có thể ngược đãi chúng hay gây hại cho chúng được chăng? Tôi mời mọi Kitô hữu hãy khai triển chiều kích này của sự hoán cải nơi họ, bằng cách cho phép sức mạnh và ánh sáng của ân sủng đã lãnh nhận cũng trải rộng đến liên hệ của họ với các thụ tạo khác cũng như với cả thế giới bao quanh họ, và gợi lên tình huynh đệ cao cả với toàn thể tạo vật, tình huynh đệ mà Thánh Phanxicô Assidi đã sống một cách hết sức rạng ngời.
IV. NIỀM VUI VÀ AN BÌNH
222. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một cách hiểu khác về phẩm chất sống, và động viên một kiểu sống mang tính ngôn sứ lẫn chiêm niệm, có khả năng giúp đánh giá sâu xa mọi vật mà không bị ám ảnh chuyện tiêu thụ. Cần tiêu hóa một giáo huấn cổ, có mặt trong nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau và cũng có trong Kinh Thánh. Đó là xác tín rằng “ít là nhiều”. Thật thế, việc không ngừng tích lũy các khả năng tiêu thụ làm trái tim xao nhãng và ngăn cản việc đánh giá từng sự vật và từng giây phút. Ngược lại, việc hiện diện cách thanh thản với mỗi thực tại, dù nhỏ đến đâu, cũng mở cho chúng ta nhiều khả năng để hiểu biết và triển nở bản thân. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một sự tăng trưởng nhờ sự điều độ và một khả năng vui hưởng ít thôi. Đây là việc trở về với sự đơn sơ, vốn cho phép chúng ta dừng lại để coi trọng cái nhỏ bé, để cám ơn các khả năng mà cuộc sống ban cho, mà không phải gắn bó với cái chúng ta có và cũng chẳng buồn vì cái chúng ta không chiếm hữu. Điều đó giả thiết phải tránh động năng của sự thống trị và sự tích lũy các lạc thú.
223. Sự điều độ, được thực hành với tự do và cách ý thức, luôn mang tính chất giải phóng. Đây không phải là sống ít hơn, đây không phải là một cường độ sống thấp mà ngược lại ; vì trong thực tế, những ai hưởng hơn và sống tốt hơn từng giây phút, là những người ngưng mổ chỗ này mổ chỗ kia để luôn tìm kiếm cái họ không có, là những người có kinh nghiệm về việc đánh giá mỗi con người và mỗi sự vật, bằng cách đi vào tiếp xúc và vui hưởng những điều đơn giản nhất. Như thế họ có ít những nhu cầu không được thỏa mãn, ít mệt mỏi hơn và ít bị dằn vặt hơn. Người ta có thể sống mãnh liệt với ít thôi, nhất là khi có khả năng quý chuộng những thú vui khác và tìm thấy thoả mãn trong những cuộc gặp gỡ huynh đệ, trong việc phục vụ, trong việc triển khai những đặc sủng của mình, trong âm nhạc và nghệ thuật, trong việc tiếp xúc với thiên nhiên, trong cầu nguyện. Hạnh phúc đòi hỏi phải biết giới hạn một số nhu cầu vốn làm cho chúng ta mụ mẫm, và như thế khiến chúng ta trở nên sẵn sàng cho nhiều khả năng đa dạng mà cuộc sống tặng ban.
224. Sự điều độ và khiêm tốn đã không nhận được một cái nhìn tích cực suốt thế kỷ mới rồi. Nhưng khi việc thực thi một nhân đức trở nên suy yếu cách phổ cập trong đời sống cá nhân và xã hội, điều đó rốt cục gây nên nhiều sự mất thăng bằng, kể cả những mất thăng bằng về môi trường. Chính vì thế, không đủ khi chỉ nói đến tính toàn vẹn của các hệ sinh thái. Phải dám nói tới tính toàn vẹn của sự sống con người, tới sự cần thiết phải khuyến khích và kết hợp mọi giá trị lớn lao. Việc biến mất đức khiêm tốn nơi một con người mà khổ thay quá say mê khả năng làm chủ mọi sự cách vô giới hạn, cuối cùng chỉ có thể đem lại thiệt hại cho xã hội và môi trường. Không dễ phát triển đức khiêm tốn lành mạnh ấy lẫn một sự điều độ thích hợp nếu chúng ta biến mình thành tự trị, nếu chúng ta loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình để cái tôi của chúng ta thế chỗ Người, nếu chúng ta tin rằng chính chủ quan tính của chúng ta xác định điều gì tốt điều gì xấu.
225. Vả lại, không ai có thể chín muồi trong một sự điều độ thích hợp mà không bình an với chính mình. Sự thấu hiểu đúng đắn về linh đạo một phần nằm ở chỗ mở rộng ý niệm bình an, vốn còn hơn là sự vắng bóng chiến tranh. Bình an nội tâm của con người phần lớn giống như việc bảo tồn môi sinh và công ích, vì khi được sống một cách đích thực, nó sẽ tỏ lộ trong một kiểu sống thăng bằng, liên kết với một khả năng kinh ngạc thán phục vốn dẫn vào chiều sâu cuộc sống. Thiên nhiên đầy ngôn ngữ tình yêu, nhưng làm thế nào ta sẽ có thể lắng nghe chúng giữa tiếng ồn ào liên lỉ, giữa sự lo ra thường xuyên đầy khắc khoải, hay giữa sự tôn thờ vẻ bên ngoài? Nhiều người có kinh nghiệm về một sự mất quân bình sâu xa vốn thúc đẩy họ làm nhiều chuyện cách nhanh chóng, để cảm thấy bận rộn, trong một sự vội vàng thường xuyên mà đến lượt nó lại khiến họ đảo lộn tất cả những gì xung quanh họ. Điều đó có một ảnh hưởng lên cách họ xử sự với môi trường. Một sinh thái học toàn vẹn bao hàm việc để ra ít thời gian để tìm lại được sự hòa hợp thanh thản với tạo vật, để suy nghĩ về kiểu sống và về các lý tưởng của chúng ta, để chiêm ngắm Đấng Sáng Tạo, Đấng đang sống giữa chúng ta và trong những gì bao quanh chúng ta; sự hiện diện của Người “không phải được tạo ra, nhưng phải được khám phá và biểu lộ” [155].
226. Chúng ta nói về một thái độ của trái tim, vốn sống tất cả với một sự chú tâm bình lặng, biết hiện diện hoàn toàn với một ai đó mà không nghĩ về điều gì đến sau, hiến thân mọi lúc như một quà tặng thần linh mà cần phải được sống tràn đầy. Đức Giêsu từng dạy chúng ta thái độ này khi Người mời chúng ta ngắm xem hoa huệ ngoài đồng và chim trời, hoặc khi đối diện với một kẻ đang lo lắng, “Người đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng mến yêu” (Mc 10,21). Người từng hoàn toàn hiện diện đối với mỗi con người cũng như với mỗi tạo vật, và như thế, Người đã cho chúng ta thấy một con đường để vượt qua nỗi khắc khoải bệnh hoạn vốn làm cho chúng ta nên hời hợt, gây gổ và thành những kẻ tiêu thụ vô độ.
227. Dừng lại để cảm tạ Thiên Chúa trước và sau bữa ăn là một biểu hiện của thái độ ấy. Tôi đề nghị với các Kitô hữu hãy trở lại với thói quen tốt đẹp này và sống nó thật sâu xa. Giây phút chúc tụng đó, dù rất ngắn ngủi, cũng nhắc cho chúng ta nhớ đời mình lệ thuộc Thiên Chúa, nó củng cố tâm tình cảm tạ của chúng ta vì những quà tặng của sáng tạo, biết ơn những ai đã làm việc để cung cấp các của cải này, và củng cố tình liên đới với những ai đang thiếu thốn hơn cả.
V. TÌNH YÊU DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ
228. Việc bảo tồn thiên nhiên là thành phần của một kiểu sống, bao hàm một khả năng chung sống và thông hiệp. Đức Giêsu đã nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta có Thiên Chúa như Cha chung, và điều này biến chúng ta thành anh chị em. Tình huynh đệ chỉ có thể nhưng không, chẳng bao giờ có thể là sự ân thưởng cho cái mà kẻ khác thực hiện, cũng không phải một sự ứng trước cho cái mà chúng ta mong chờ kẻ ấy sẽ làm. Chính vì thế, có thể yêu mến kẻ thù. Chính tính chất nhưng không này dẫn chúng ta đến việc yêu mến và đón nhận ngọn gió, mặt trời hay các đám mây, cho dẫu chúng không tùy thuộc sự kiểm soát của chúng ta. Vì thế chúng ta mới có thể nói đến một tình huynh đệ phổ quát, hoàn vũ.
229. Phải ý thức lại rằng chúng ta cần đến nhau, có một trách nhiệm đối với kẻ khác và với thế giới, rằng đáng bỏ công sống tốt lành và lương thiện. Đã từ rất lâu chúng ta ở trong một sự suy thoái luân lý khi cười chê đạo đức, lòng tốt, niềm tin, sự lương thiện. Nay đã đến lúc ý thức rằng sự hời hợt ấy đã không giúp ích gì cho chúng ta. Việc tàn phá mọi nền tảng của đời sống xã hội như thế rốt cục khiến chúng ta chống nhau, ai nấy tìm cách bảo vệ những lợi ích riêng của mình ; nó gây nên sự trỗi dậy của những hình thức bạo lực và độc ác mới, ngăn cản sự phát triển một nền văn hoá bảo vệ môi trường đích thực.
230. Gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux mời gọi chúng ta thực hiện con đường nhỏ của tình yêu, không đánh mất cơ hội nói một lời dễ thương, nở một nụ cười, làm bất cứ cử chỉ nhỏ bé nào gieo bình an và tình bạn. Một sinh thái học trọn vẹn cũng được làm từ nhiều cử chỉ đơn sơ thường nhật, qua đó chúng ta phá vỡ lô-gich của bạo lực, khai thác và ích kỷ. Trong khi đó, thế giới của sự tiêu thụ điên khùng cũng đồng thời là thế giới ngược đãi cuộc sống dưới mọi hình thức.
231. Tình yêu, được hiện thực từ những cử chỉ bé nhỏ quan tâm đến nhau, cũng mang tính chất dân sự lẫn chính trị, và biểu lộ trong mọi hành động nỗ lực xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Lòng yêu mến xã hội và sự dấn thân cho công ích là một hình thức bác ái tuyệt hảo, không những liên hệ tới các tương giao giữa cá nhân, mà còn liên hệ tới “các tương quan vĩ mô: tương quan xã hội, kinh tế, chính trị” [156]. Vì thế, Giáo hội đã đề nghị với thế giới lý tưởng một “văn minh tình thương” [157]. Tình yêu xã hội là chìa khoá cho một sự phát triển đích thực: “Để làm cho xã hội nhân bản hơn, xứng với con người hơn, phải đánh giá lại tình yêu trong đời sống xã hội – ở mức độ chính trị, kinh tế, văn hoá – bằng cách biến nó thành quy tắc thường xuyên và tối cao cho hành động” [158]. Trong khuôn khổ này, kèm theo sự quan trọng của những cử chỉ nhỏ nhặt thường nhật, tình yêu xã hội thúc đẩy chúng ta nghĩ đến những đại chiến lược như chặn đứng hữu hiệu sự suy thoái môi trường và khuyến khích một nền văn hoá bảo vệ thấm nhuần toàn xã hội. Ai nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa hãy hành động cùng với những người khác trong các động năng xã hội ấy, phải nhớ lại rằng điều đó nằm trong linh đạo của mình, rằng đó là thực thi lòng bác ái và rằng với cách ấy, là mình trưởng thành và thánh hoá bản thân.
232. Không phải tất cả mọi người đều được kêu gọi trực tiếp làm việc trong chính trị; nhưng giữa lòng xã hội nảy sinh vô số hiệp hội can thiệp cho công ích, bằng cách bảo vệ môi trường thiên nhiên và đô thị. Ví dụ họ quan tâm đến một nơi công cộng (một toà nhà, một vòi phun nước, một công trình bị phế bỏ, một thắng cảnh, một công trường) để bảo vệ, làm sạch, làm tốt hay làm đẹp hơn một cái gì đó vốn thuộc về tất cả. Quanh các hiệp hội đó phát triển hay cải cách nhiều liên hệ, và một mạng lưới xã hội địa phương nổi lên. Một cộng đồng tự giải thoát mình khỏi sự dửng dưng chỉ biết tiêu thụ. Điều đó bao hàm sự vun đắp một căn tính chung, một lịch sử vốn tự bảo tồn và tự chuyển tiếp. Bằng cách này, thế giới và phẩm chất sống của những người nghèo khổ nhất sẽ được bảo tồn, nhờ một ý thức liên đới, vốn đồng thời là ý thức cư trú một ngôi nhà chung mà Thiên Chúa đã cho chúng ta mượn. Những hoạt động chung như thế, khi diễn tả một tình yêu tự hiến, có thể trở thành những kinh nghiệm thiêng liêng mãnh liệt.
VI. NHỮNG DẤU CHỈ BÍ TÍCH VÀ SỰ NGHỈ NGƠI ĐỂ CỬ HÀNH
233. Vũ trụ khai mở trong Thiên Chúa, Đấng làm đầy nó trọn vẹn. Như thế có một cảm nghiệm thần bí trong một ngọn lá, một con đường, trong sương mai, trong khuôn mặt của người nghèo. Lý tưởng không chỉ là đi từ ngoài vào trong để khám phá ra hành động của Thiên Chúa nơi linh hồn, nhưng cũng là đi đến chỗ gặp thấy Người trong mọi vật [159], như thánh Bonaventura từng dạy: “Chiêm niệm càng cao siêu, khi con người cảm thấy trong chính mình hiệu quả hồng ân Thiên Chúa, và biết tìm gặp Thiên Chúa trong các tạo vật bên ngoài” [160].
234. Thánh Gioan Thánh Giá từng dạy rằng những gì tốt đẹp trong vạn vật và trong các kinh nghiệm về thế giới “sẽ gặp nhau trong Thiên Chúa cách trác tuyệt và đến vô biên, hay nói đúng hơn, mỗi một trong những điều tuyệt hảo ấy là chính Thiên Chúa, cũng như mọi cái tuyệt hảo ấy kết hợp với nhau là chính Thiên Chúa” [161]. Không phải vì những vật hữu hạn của thế giới thực sự mang thiên tính, nhưng vì nhà thần bí cảm nghiệm sự nối kết sâu xa vốn có giữa Thiên Chúa với mọi hữu thể, và như thế “ông cảm thấy Thiên Chúa là tất cả vạn vật” [162] Nếu nhà thần bí ca ngợi sự vĩ đại của một ngọn núi, ông không thể tách nó khỏi Thiên Chúa, và ông cảm nhận rằng sự thán phục nội tâm mà mình đang có, phải dựa trên Chúa. “Những ngọn núi được nâng lên cao, chúng thật màu mỡ, rộng rãi, xinh đẹp, duyên dáng, đầy hoa và thơm lừng. Đối với tôi, Người Dấu Ái của tôi là những ngọn núi ấy. Những thung lũng cô quạnh thật yên bình, dễ chịu, tươi mát và đầy bóng râm. Nước trong lành chảy tràn lan ở đó. Chúng quyến rũ và tái tạo các giác quan bằng thảo mộc đa dạng của chúng và bằng tiếng ca du dương của các loài chim đang cư ngụ. Chúng cung cấp sự tươi mát và sự yên nghỉ nhờ vẻ hiu quạnh và thinh lặng đang ngự trị ở đó. Đối với tôi, Người Dấu Ái của tôi là những thung lũng này” [163].
235. Các bí tích là một dạng ưu tuyển của cách thức thiên nhiên được Thiên Chúa đảm nhận và trở thành trung gian cho sự sống siêu nhiên. Qua việc tôn thờ, chúng ta được mời gọi ôm lấy thế giới ở một mức độ khác. Nước, dầu, lửa và màu sắc được đảm nhận với tất cả lực biểu trưng của chúng và được đưa vào lời ca tụng. Bàn tay chúc lành là công cụ của tình yêu Thiên Chúa và phản ánh sự gần gũi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đến đồng hành với chúng ta trên đường đời. Nước xối trên thân xác em bé được rửa tội là dấu chỉ sự sống mới. Chúng ta không chạy thoát khỏi thế gian, cũng chẳng phủ nhận thiên nhiên khi chúng ta muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Điều này có thể nhận ra cách đặc biệt trong linh đạo Kitô giáo Đông phương: “Vẻ đẹp, vốn là một trong những hạn từ ưu ái bên Đông phương để chỉ sự hài hoà thần linh và khuôn mẫu của nhân tính được biến đổi, thì biểu lộ khắp nơi: trong các hình dáng của cung thánh, trong các âm thanh, màu sắc, ánh sáng, mùi hương” [164]. Theo kinh nghiệm Kitô giáo, mọi tạo vật của vũ trụ vật chất tìm được ý nghĩa đích thực của chúng trong Ngôi Lời nhập thể, vì Con Thiên Chúa đã tích hợp vào trong bản thân Người một phần của vũ trụ vật chất, nơi mà Người đã đưa vào một mầm mống biến đổi dứt khoát: “Kitô giáo không từ khước vật chất, xác thể tính, nhưng trái lại giá trị hóa nó cách trọn vẹn trong hành vi phụng vụ, trong đó thân xác con người cho thấy bản chất thâm sâu của mình là đền thờ của Thánh Thần và đạt đến chỗ kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng đã hóa thành nhục thể để cứu độ trần gian” [165].
236. Tạo vật tìm thấy sự nâng cao lớn lao nhất của mình trong bí tích Thánh Thể. Ân sủng, vốn có khuynh hướng tỏ mình cách khả giác, đạt được một sự biểu lộ khác thường khi Thiên Chúa làm người trở thành lương thực cho thụ tạo. Ở đỉnh cao của mầu nhiệm Nhập thể, Chúa đã muốn kết hợp thâm sâu với chúng ta qua một mẩu vật chất. Không phải từ trên cao, nhưng từ bên trong, để chúng ta có thể gặp gỡ Người trong thế giới của chúng ta. Trong tích Thánh Thể, sự viên mãn đã được hiện thực; đó là trung tâm cốt tử của vũ trụ, lò lửa tràn đầy tình yêu và sự sống vô tận. Kết hợp với Ngôi Con nhập thể hiện diện trong bí tích Thánh Thể, toàn thể vũ trụ tạ ơn Thiên Chúa. Thật vậy, bí tích Thánh Thể tự thân là một hành vi tình yêu mang tính vũ trụ: “Vâng, mang tính vũ trụ! Vì ngay cả khi được cử hành trên một bàn thờ nhỏ trong một nhà thờ vùng quê, Thánh Thể vẫn luôn được cử hành, theo một nghĩa nào đó, trên bàn thờ của thế giới” [166]. Bí tích Thánh Thể kết hợp trời với đất, ôm trọn và xâm nhập tất cả thụ tạo. Thế giới xuất phát từ bàn tay của Thiên Chúa, trở về với Người trong một sự thờ phượng vui tươi và tròn đầy: trong Bánh Thánh Thể “tạo vật hướng đến việc thần hoá, đến các tiệc cưới thánh, đến sự kết hợp với chính Đấng Sáng Tạo” [167]. Vì thế, bí tích Thánh Thể cũng là nguồn ánh sáng và động lực cho những bận tâm của chúng ta đối với môi trường, và mời gọi chúng ta trở thành những người gìn giữ toàn thể tạo vật.
237. Chúa nhật, việc tham dự vào bí tích Thánh Thể có một tầm quan trọng đặc biệt. Ngày này, như ngày Sabbat Do Thái, được hiến dâng như là ngày thanh tẩy những tương quan của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với kẻ khác và với thế giới. Chúa nhật là ngày của sự Phục sinh, “ngày thứ nhất” của cuộc sáng tạo mới, mà hoa trái đầu tiên là nhân tính được phục sinh của Chúa, bảo chứng cho việc biến hình cuối cùng của tất cả thực tại thụ tạo. Ngoài ra, ngày này công bố “sự yên nghỉ vĩnh cửu của con người trong Thiên Chúa” [168]. Bằng cách ấy, linh đạo Kitô giáo hội nhập giá trị của nghỉ ngơi và lễ lạc. Con người có khuynh hướng giản lược sự nghỉ ngơi trầm tư vào lãnh vực cái không sinh lợi hay vô ích, mà quên rằng làm như thế, họ rút khỏi công việc mà họ thực hiện cái quan trọng nhất: ý nghĩa của nó. Chúng ta được mời gọi đưa vào hành động của mình một chiều kích thụ cảm và nhưng không, vốn khác với việc chẳng làm gì cả. Đây là một cách thức hành động khác, vốn thuộc về yếu tính của chúng ta. Như thế, hành động của con người không chỉ được giữ cho khỏi thói duy hoạt động trống rỗng, nhưng cũng khỏi niềm đam mê ham hố và sự cô lập của ý thức, vốn dẫn tới việc chỉ theo đuổi lợi lộc cá nhân. Luật nghỉ ngơi hằng tuần từng áp đặt việc ngưng hoạt động ngày thứ bảy, “để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức” (Xh 23,12). Thật vậy, việc nghỉ ngơi là một sự nới rộng cái nhìn giúp nhận ra thêm một lần nữa quyền của kẻ khác. Như thế, ngày nghỉ, mà bí tích Thánh Thể là trung tâm, chiểu toả ánh sáng trên cả tuần lễ và thúc đẩy chúng ta nội tâm hóa việc bảo vệ thiên nhiên và người nghèo.
VII. THIÊN CHÚA BA NGÔI VÀ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC THỤ TẠO
238. Chúa Cha là suối nguồn tối thượng của tất cả, nền tảng yêu thương và thông hiệp của mọi cái hiện hữu. Chúa Con, Đấng phản ánh Chúa Cha và nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã kết hợp mình với trái đất này khi Người được hình thành trong dạ Đức Maria. Thánh Thần, dây liên kết vô biên của tình yêu, hiện diện mật thiết giữa lòng vũ trụ, bằng cách sinh động nó và gợi lên những con đường mới. Thế giới đã được Ba Ngôi tạo dựng như một nguyên lý thần linh độc nhất, nhưng mỗi Vị thực hiện công trình chung này theo tính cách riêng của mình. Chính vì thế “khi chúng ta thán phục chiêm ngắm vũ trụ trong sự vĩ đại và vẻ đẹp của nó, chúng ta phải ngợi khen toàn thể Chúa Ba Ngôi” [169].
239. Đối với các Kitô hữu, đức tin vào một Thiên Chúa độc nhất và hiệp thông Ba Ngôi khiến nghĩ rằng tất cả thực tại chứa đựng trong lòng nó một dấu chứng Ba Ngôi rõ ràng. Thánh Bonaventura còn đi đến chỗ khẳng định rằng trước khi phạm tội, con người đã từng có thể khám phá làm sao mỗi thụ tạo “đều xác nhận rằng Thiên Chúa có ba ngôi”. Phản ảnh của Ba Ngôi từng có thể được nhận ra trong thiên nhiên “khi quyển sách này không phải tối mò đối với con người, và đôi mắt của con người không bị vẩn đục” [170] Vị Thánh dòng Phanxicô dạy chúng ta rằng mọi tạo vật đều mang trong mình một cấu trúc ba ngôi rõ ràng, thực sự đến độ nó có thể được chiêm ngắm một cách tự nhiên nếu như cái nhìn của con người đã không bị giới hạn, tối mò và yếu đuối. Như thế ngài chỉ cho chúng ta mối thách thức là nỗ lực đọc thực tại với một chìa khoá ba ngôi.
240. Các Ngôi vị thần linh là những tương quan thuộc bản thể, và thế giới, được sáng tạo theo mô thức thần linh, là một mớ tương quan. Các thụ tạo hướng về Thiên Chúa, và đặc tính mọi sinh vật là đến phiên mình lại hướng tới vật khác, đến độ ngay giữa lòng vũ trụ, chúng ta có thể tìm thấy vô số tương quan vững bền đan kết nhau cách bí mật [171]. Điều này mời chúng ta không những khâm phục các liên kết đa dạng vốn có giữa các thụ tạo, nhưng còn khám phá ra một chìa khoá của chính sự triển nở chúng ta. Thật thế, con người lớn lên, trưởng thành và thánh hoá bản thân theo mức độ bước vào tương quan, khi ra khỏi chính mình để sống hiệp thông với Thiên Chúa, với những kẻ khác và với mọi thụ tạo. Như thế, họ đảm nhận trong hiện sinh của mình sự năng động ba ngôi ấy mà Thiên Chúa đã in vào con người từ lúc sáng tạo nên họ. Tất cả đều liên kết với nhau, và điều này mời gọi chúng ta làm chín muồi một linh đạo của tình liên đới hoàn vũ vốn xuất phát từ mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
VIII. NỮ VƯƠNG CỦA MỌI TẠO VẬT
241. Đức Maria, người Mẹ đã lo lắng cho Đức Giêsu, từ nay cũng chăm sóc thế giới bị thương tích này với tình thương và nỗi khổ hiền mẫu. Vì với trái tim bị đâm thâu, Mẹ đã khóc thương cái chết của Đức Giêsu, nay Mẹ cũng cảm thông với nỗi khổ của những người nghèo bị đóng đinh và của các thụ tạo trên trái đất này đang bị quyền lực con người tàn phá. Trọn vẹn biến hình, Mẹ đang sống với Đức Giêsu, và mọi thụ tạo đều ca tụng vẻ đẹp của Mẹ. Mẹ là Người Nữ “khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Được nâng lên trời, Mẹ là Hiền Mẫu và Nữ Vương của toàn thể tạo vật. Trong thân xác vinh quang của Mẹ, cùng với Đức Kitô phục sinh, một phần của tạo vật đã đạt được tất cả sự viên mãn của vẻ đẹp mình. Không những Mẹ lưu giữ trong trái tim mình toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu, mà Mẹ đã ghi nhớ một cách trung tín (x. Lc 2, 19.51), nhưng bây giờ Mẹ cũng hiểu được ý nghĩa của vạn vật. Vì thế, chúng ta có thể xin Mẹ giúp chúng ta nhìn thế giới này với những con mắt khôn ngoan hơn.
242. Bên cạnh Mẹ, trong Thánh gia Nadarét, nổi lên khuôn mặt của thánh Giuse. Ngài đã chăm sóc Đức Maria và Đức Giêsu, đã bảo vệ hai Đấng bằng công việc và sự hiện diện quảng đại của mình, đã giải thoát hai Đấng khỏi bạo lực của những kẻ bất chính bằng cách đưa hai Đấng sang Ai Cập. Trong Tin Mừng, ngài xuất hiện như một người công chính, chăm chỉ và mạnh mẽ. Nhưng từ khuôn mặt của ngài cũng toát ra một sự dịu hiền vĩ đại, vốn không phải là đặc tính của những kẻ yếu đuối, nhưng là của những người thực sự mạnh mẽ, chú tâm đến thực tại để yêu mến và phục vụ cách khiêm tốn. Vì thế, ngài đã được tuyên bố là Đấng Bảo trợ Giáo hội hoàn vũ. Ngài cũng có thể dạy chúng ta để che chở, có thể động viên chúng ta lao động với lòng quảng đại và âu yếm, để chăm sóc thế giới mà Thiên Chúa đã giao cho chúng ta.
IX. BÊN KIA MẶT TRỜI
243. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy mình đối diện với vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa (x. 1Cr 13,12) và với một sự thán phục sung sướng, chúng ta sẽ có thể đọc được mầu nhiệm của vũ trụ vốn sẽ cùng chúng ta tham dự vào sự viên mãn vô tận. Vâng, chúng ta đang lữ hành đến ngày Sa-bát vĩnh cửu, đến Giêrusalem mới, đến ngôi nhà chung ở trên trời. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Cuộc sống vĩnh cửu sẽ là một sự kinh ngạc thán phục được chia sẻ, nơi mỗi thụ tạo, được biến đổi một cách sáng láng, sẽ nắm vị trí của mình và sẽ có một cái gì đó mang đến cho những kẻ nghèo được giải thoát cách vĩnh viễn.
244. Trong lúc chờ đợi, chúng ta kết hợp với nhau để đảm trách ngôi nhà này, ngôi nhà đã được trao cho chúng ta, vì biết rằng tất cả những gì tốt đẹp trong nó sẽ được đảm nhận trong lễ hội trên trời. Chúng ta cùng tiến bước với mọi tạo vật trên trái đất này mà đi tìm Thiên Chúa, vì “nếu thế gian có một nguyên lý và đã được tạo dựng, thì nó đi tìm Đấng đã sáng tạo nó, đi tìm Đấng đã ban cho nó một khởi đầu, Đấng là Tạo Hóa của nó” [172]. Ta hãy tiến bước trong tiếng ca vang! Ước gì các cuộc chiến đấu và mối ưu tư của chúng ta cho hành tinh này sẽ không cất đi khỏi chúng ta niềm vui của hy vọng.
245. Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta dấn thân cách quảng đại và cho đi tất cả, ban cho chúng ta những sức mạnh cũng như ánh sáng mà chúng ta cần để tiến tới. Giữa lòng thế giới này, Chúa của sự sống, Đấng quá yêu thương chúng ta, vẫn tiếp tục hiện diện. Người không lìa bỏ chúng ta, chẳng để chúng ta một mình, vì Người đã dứt khoát kết hợp với trái đất của chúng ta, và tình yêu của Người luôn dẫn chúng ta đi tìm những con đường mới. Xin chúc tụng Người!
**********
246. Sau suy tư dài vừa hân hoan vừa bi thảm như thế, tôi xin đề nghị hai lời kinh: một lời mà chúng ta, tất cả những ai tin vào một Thiên Chúa Tạo hóa Toàn năng, sẽ có thể chia sẻ; và một lời kinh để Kitô hữu chúng ta biết đảm nhận các cam kết đối với tạo vật mà Tin Mừng của Đức Giêsu đề nghị cho chúng ta.
Lời kinh cho trái đất chúng ta
Lạy Thiên Chúa Toàn năng
Đấng hiện diện trong toàn thể vũ trụ
và trong thụ tạo nhỏ bé nhất của Ngài,
Chúa đã lấy tình âu yếm bao phủ tất cả những gì hiện hữu.
Xin gieo rắc trên chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa,
để chúng con bảo vệ sự sống và vẻ đẹp.
Xin đổ tràn bình an cho chúng con,
để chúng con sống như anh em, chị em với nhau,
mà không gây thiệt hại cho người nào.
Ôi Thiên Chúa của những người nghèo khổ,
xin giúp chúng con cứu vớt những ai bị bỏ rơi,
và bị quên lãng của trái đất này,
những con người có giá trị biết bao trước mắt Chúa.
Xin chữa lành cuộc sống của chúng con,
để chúng con trở nên những người bảo vệ thế giới,
chứ không phải là những kẻ săn mồi,
để chúng con gieo vẻ đẹp,
chứ không phải ô nhiễm và tàn phá.
Xin chạm đến trái tim của những kẻ chỉ tìm lợi nhuận
mà gây thiệt hại cho trái đất và cho các người nghèo.
Xin dạy chúng con khám phá giá trị của mỗi vật,
biết chiêm ngắm trong kinh ngạc thán phục,
biết nhận ra rằng chúng con liên kết sâu xa
với tất cả mọi tạo vật
trên con đường chúng con tiến về ánh sáng vô tận của Chúa.
Xin tạ ơn
vì Chúa ở chúng con mọi ngày.
Chúng con van xin Chúa
nâng đỡ chúng con
trong cuộc chiến đấu của chúng con cho công lý, tình thương và bình an.
Lời kinh của Kitô hữu cùng với tạo vật
Lạy Cha, chúng con ngợi khen Cha, cùng với muôn thụ tạo
xuất phát từ bàn tay uy quyền của Cha.
Chúng đều thuộc về Cha, và tràn đầy sự hiện diện
lẫn tình âu yếm của Cha.
Xin ngợi khen Ngài.
Lạy Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
vạn vật đã được tạo dựng nhờ Ngài.
Chúa đã được hình thành trong cung lòng Mẹ Maria,
Chúa đã nên một thành phần của trái đất này
và đã nhìn thế giới ấy với đôi mắt nhân loại.
Hôm nay Chúa vẫn sống động trong từng thụ tạo
với vinh quang phục sinh của Chúa.
Xin ngợi khen Ngài.
Lạy Thánh Thần, Đấng dùng ánh sáng của mình
Mà hướng thế giới này đến tình yêu của Chúa Cha
và đồng hành với tiếng rên than của tạo vật.
Chúa cũng sống trong tâm hồn chúng con
để đẩy chúng con đến điều thiện.
Xin ngợi khen Ngài.
Ôi Thiên Chúa, Độc nhất và Ba ngôi,
Cộng đoàn Tối thượng của tình yêu vô biên,
xin dạy chúng con biết chiêm ngắm Chúa
trong vẻ đẹp của vũ trụ,
nơi tất cả nói với chúng con về Ngài.
Xin khơi dậy lời ca ngợi và lòng biết ơn của chúng con
vì mỗi hữu thể mà Chúa đã sáng tạo.
Xin ban cho chúng con
ơn được thấy mình kết hợp mật thiết với tất cả những gì hiện hữu.
Lạy Thiên Chúa tình yêu,
xin chỉ cho chúng con vị trí của chúng con trong thế giới này
là làm các khí cụ của tình yêu Chúa
đối với mọi hữu thể của trái đất này,
vì không thụ tạo nào bị Chúa bỏ quên cả.
Xin soi sáng cho những người nắm giữ quyền lực và tiền bạc,
để họ giữ mình khỏi cái tội dửng dưng,
biết yêu mến công ích, cổ vũ những kẻ yếu nhược
và chăm sóc thế giới mà chúng con đang cư ngụ,
Những người nghèo và trái đất đều van xin:
Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con
bằng quyền năng và ánh sáng của Ngài,
để chở che mọi sự sống,
để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn,
để Vương quốc công lý, bình an,
tình thương và thiện mỹ của Chúa trị đến.
Xin ngợi khen Ngài.
Amen.
Ban hành tại Rôma, cạnh đền thờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng 5 năm 2015, đại lễ Hiện Xuống, vào năm thứ ba triều đại Giáo hoàng của tôi.
Phanxicô