Nhảy đến nội dung

Suy niệm Thứ Hai Tuần III Mùa Chay

24  25  Tm  Thứ Hai Tuần III Mùa Chay.

2V 5,1-15a; Lc 4,24-30.

LỜI CHÚA:

Lc 4,24-30

Tại Na-za-rét, Đức Giê-su nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.

“Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”

Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.

 

DẸP BỎ THÀNH KIẾN VÀ THÁI ĐỘ BẢO THỦ ĐỂ NHẬN RA Ý CHÚA

Bài đọc 1 hôm nay (2V 5,1-15a) kể lại câu chuyện ông Naaman, vị tướng lừng danh xứ Syria, bị phong hủi. Ông nghe danh ngôn sứ Êlisêô, bèn tìm đến nhờ chữa lành. Thế nhưng, trái ngược với lòng mong đợi của Naaman, ngôn sứ chẳng đích thân ra đón tiếp hay thực hiện nghi thức long trọng nào, chỉ sai người đầy tớ ra bảo ông: “Hãy đi tắm dưới sông Giođan.” Naaman mang tâm lý một vị tướng kiêu hãnh, lại sẵn trong đầu những suy nghĩ sắp đặt sẵn về cách phải được chữa trị. Ông đã nổi giận, toan bỏ về. Rất may, những người đầy tớ đã khuyên ông đừng chấp nệ sĩ diện, vì “nếu ngôn sứ bảo cha làm điều gì khó, chắc cha cũng làm, huống chi chỉ bảo đi tắm mà thôi.” Cuối cùng, Naaman chịu buông bỏ thành kiến, vâng phục theo lời ngôn sứ, dìm mình bảy lần dưới sông Giođan, và phép lạ đã xảy ra: da thịt ông được đổi mới như trẻ thơ.

Chính bài đọc này soi sáng Tin Mừng (Lc 4,24-30), thuật lại thái độ của dân làng Nazaret khi Chúa Giêsu trở về quê nhà. Ngài từng sống giữa họ, xuất thân từ một gia đình bình thường, con bác thợ mộc. Họ nghĩ rằng Đấng Mêsia phải là ai đó hào nhoáng, xuất thân cao trọng, làm những dấu lạ oai hùng; họ đâu thể ngờ “anh nhà quê” này lại là Con Thiên Chúa. Khi nghe Chúa nhắc tới câu chuyện bà góa thành Sarepta thời Êlia hay Naaman xứ Syria thời Êlisêô, họ không mở lòng đón nhận mà ngược lại, phẫn nộ, lôi Chúa ra khỏi thành, định xô Người xuống vực. Sự hung hãn này cho thấy họ đã có sẵn thành kiến, lối mòn ý nghĩ và tự mãn, không chịu tin Đấng Mêsia phải trải qua một lộ trình bình dị, khó nghèo như thế. Không khác gì Naaman ban đầu, nhưng Naaman có người khuyên nhủ nên đã hạ mình đi tắm sông Giođan; còn dân Nazaret lại cố chấp, kết cục gây nên một thảm cảnh: suýt nữa họ trở thành những kẻ sát nhân của chính Con Thiên Chúa.

Thành kiến và lối suy nghĩ “có sẵn” ấy vô cùng nguy hiểm. Nó khiến ta như bị “bịt mắt,” không còn thấy được sự mới mẻ, những con đường ít ai ngờ mà Chúa muốn dẫn ta. Naaman khi tin vào ý Chúa đã được chữa lành, còn dân Nazaret lại đẩy Chúa ra khỏi cuộc sống của họ, mất đi cơ hội đón nhận Đấng Cứu Thế. Từ đó, ta nhìn sang đời sống thường ngày: nếu ta muốn người khác luôn làm theo ý mình, ta dễ thành độc đoán, bảo thủ; ngược lại, ta cũng khiến họ mất cơ hội phát huy khả năng riêng. Nguy hiểm hơn, ta còn áp đặt những suy nghĩ lệch lạc lên cả Thiên Chúa, “đòi” Chúa làm theo ý mình. Nhưng Chúa dạy rõ: “Có người cha nào khi con xin bánh lại cho nó hòn đá? Khi con xin cá lại cho nó con rắn?” (Mt 7,9-10). Nếu chính ta vì suy nghĩ hạn hẹp mà xin “hòn đá” thay vì “bánh,” xin “rắn” thay vì “cá,” thì há chẳng phải mất đi vô vàn ân huệ Chúa muốn ban?

Trong đời sống đức tin, cũng như đời sống thường ngày, bài học lớn là: hãy hạ mình lắng nghe ý Chúa. Ý Chúa ẩn sau những điều đơn sơ, có thể hoàn toàn vượt xa tính toán của ta. Khi Naaman tự ái, muốn những nghi lễ hoành tráng, Thiên Chúa lại chọn một cách nhẹ nhàng, khiêm tốn để thể hiện quyền năng. Khi dân Nazaret đòi Chúa phải tỏ dấu lạ to tát, Chúa lại nói rõ chỉ những ai biết mở lòng thì mới nhận ra ơn cứu độ. Xuyên suốt Kinh Thánh, Thiên Chúa nhiều lần hành động như thế: khởi đi từ những gì âm thầm, nhỏ bé để bày tỏ vinh quang. Phần ta, nếu cứ cố thủ với định kiến “Chúa phải làm thế này, Hội Thánh phải làm thế kia, người khác phải thế nọ,” ta sẽ bỏ lỡ nhiều ơn lành.

Hơn nữa, ta cũng nên nhớ chính mình dễ rơi vào tình cảnh của dân Nazaret, nơi Chúa Giêsu đã lớn lên mà họ vẫn không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế. Hãy xét xem có khi nào Chúa Giêsu “đang ở ngay bên cạnh,” trong những người thân cận, trong những tình huống rất đời thường, nơi Lời Chúa chất phác, nơi tấm gương sống xung quanh... mà ta vẫn bịt mắt vì ưa thích một hình ảnh khác? Từ xưa đến nay, Chúa thường chọn phương cách nhỏ bé, bình dị, để gặp gỡ con người. Một em bé, một người nghèo, một sự kiện xảy ra trong âm thầm, cũng có thể là phương tiện Chúa dùng. Nếu ta dám gạt bỏ thành kiến, sẽ cảm nghiệm được “Chúa đang đến” với chính ta. Ngược lại, cố chấp khép kín, ta xô Ngài ra xa như dân Nazaret.

Những điều ấy thúc giục ta thực hành vài điểm cụ thể. Trước tiên, hãy buông xả “lối mòn” một cách can đảm. Hãy sẵn sàng lắng nghe ý kiến người khác, bởi biết đâu Chúa đang nói qua họ. Lòng tự ái, tính độc đoán chỉ làm ta bất toại trong tiến trình trưởng thành. Ta cũng cần tu luyện đời sống cầu nguyện, để mở tâm hồn cho Chúa uốn nắn. Chúa thường nhắc nhở ta qua Lời Kinh Thánh, qua lời khuyên của các bậc khôn ngoan, qua cảm thức đức tin cộng đoàn. Chỉ khi có đức khiêm nhường, ta mới nghe thấy. Sau nữa, trong đời sống đức tin, hãy để Chúa quyết định “cách thức” Ngài ban ơn. Đừng áp đặt phương cách hay thời điểm, cứ tin rằng Thiên Chúa, với tình thương vô biên, sẽ ban “cái bánh,” “con cá” đúng lúc, đúng cách, miễn ta bền chí cầu nguyện và sống tín thác. Ai dám tin và hành động như thế, sẽ kinh nghiệm được ơn Chúa tuôn tràn, tựa như làn nước sông Giođan rửa sạch bệnh phong của Naaman.

Hình ảnh dân Nazaret “lôi Chúa ra khỏi thành, kéo lên đỉnh núi để xô Người xuống vực” còn là cảnh báo, vì có khi trong chính trái tim ta, ta đang “xô Chúa đi” bằng những suy nghĩ dữ dội, những ích kỷ, ngạo mạn. Chúa Giêsu “băng qua giữa họ mà đi,” cho thấy Ngài không bao giờ dừng bước nếu gặp chướng ngại, nhưng ta thì mất đi hồng ân. Vậy nên, cầu mong rằng trong Mùa Chay này, thay vì xô Chúa ra, ta biết khiêm tốn dừng lại, xét mình, từ bỏ thành kiến. Ta hãy mở rộng lòng để Chúa ở lại, cảm nếm sự hiện diện nhẹ nhàng nhưng đầy quyền năng của Ngài trong các biến cố thường ngày.

Cuối cùng, bài học “xin Chúa làm theo ý Ngài, chứ không phải theo ý ta” còn soi sáng những thử thách hiện nay trong đời sống cá nhân, gia đình, và Giáo Hội. Nếu ta đặt Chúa làm tâm điểm, để Thánh Thần dẫn dắt, ta sẽ tìm ra con đường tốt đẹp hầu giải quyết những trở ngại, khác với những dự tính khô cứng, thành kiến cá nhân. Xin Chúa cho ta biết bắt chước Naaman: dù ban đầu cứng lòng, nhưng cuối cùng biết nghe lời khuyên để vâng phục và nhận lãnh phép lạ. Và xin Chúa đừng để ta tái diễn cảnh dân Nazaret, cậy mình hiểu biết, thậm chí xô đẩy Đấng Cứu Thế ra bên lề. Vì Chúa nói: “Nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ ăn tối với Ta” (Kh 3,20).

Lm. Anmai, CSsR


 

CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ VÀ TẤM LÒNG MỞ RA CHO THIÊN CHÚA

Tin Mừng hôm nay (Lc 4,24-30) trình bày một sự kiện đầy nghịch lý: Chúa Giêsu, ngay tại quê hương Na-da-rét, lại không được đón nhận. Ngài nhắc đến những biến cố trong Cựu Ước để cho thấy, lịch sử đã từng chứng minh một thực tế: Thiên Chúa thường thi thố ân sủng của Người nơi những con tim sẵn lòng, chứ không nhất thiết ở nơi những kẻ tự coi mình có truyền thống đức tin, nhưng lại khô cứng. Giữa Israel, vào thời tiên tri Ê-li-a, cơn đói kém dồn dập mà “thiếu gì bà góa ở trong nước,” nhưng Ê-li-a chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng thế, vào thời Ê-li-sa, biết bao người phong hủi ở Israel, nhưng không ai được sạch ngoài ông Na-a-man, một người ngoại bang gốc Syria. Khi nghe Chúa Giêsu nêu ra các sự kiện này, những người đồng hương Ngài bỗng trở nên tức tối, đuổi Ngài lên tận đỉnh núi và toan xô Ngài xuống vực. Sự phẫn nộ ấy xuất phát từ lòng tự ái: họ không tin nổi rằng Thiên Chúa lại “bỏ rơi” mình, để ban ơn cho dân ngoại. Họ chờ đợi những dấu lạ phi thường, mong Chúa Giêsu thi thố “độc chiêu” tại quê nhà như ở những nơi khác, nhưng chính sự kiêu hãnh lại ngăn cản họ nhận ra sự hiện diện đích thực của Ngài.

Hình ảnh hai vị tiên tri Cựu Ước mà Chúa Giêsu nhắc đến gợi lại bài đọc trích sách Các Vua (2V 5,1-15a): Na-a-man xứ Syria, một tướng quân bị phong hủi, đã khiêm tốn đến tìm gặp ngôn sứ Ê-li-sa. Thoạt tiên, ông khó chịu vì Ê-li-sa chỉ bảo ông đi tắm ở sông Gio-đan, chứ không ra tay phô diễn quyền năng. Nhưng khi nghe lời khuyên từ các đầy tớ, ông chấp nhận làm điều tưởng như tầm thường: “tắm bảy lần trong sông Gio-đan.” Cái tầm thường ấy chính là chìa khóa cho phép ân sủng Thiên Chúa ban cho Na-a-man. Nước sông Gio-đan không khác gì nước ở vùng Syria, nhưng nhờ lòng khiêm hạ và sự vâng lời, Na-a-man được chữa lành, trở về ca ngợi Thiên Chúa. Đó là phép lạ diễn ra không phải nơi trung tâm xứ Israel, mà là một người ngoại giáo đã đón nhận ơn Chúa vì ông mở lòng với lời mời gọi.

Trái lại, những kẻ đồng hương của Chúa Giêsu không chấp nhận Ngài, vì họ đặt cho Ngài quá nhiều tiêu chuẩn, đòi buộc Ngài phải chứng tỏ bản thân cách ngoạn mục. Họ cho rằng: “Ông này chẳng phải con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng tôi biết rõ gia tộc của ông, tại sao ông tự nhận là Đấng Cứu Thế?” Họ chỉ thấy Chúa Giêsu “quá đỗi bình thường,” sinh ra trong một gia đình lao động, nói cùng ngôn ngữ, lớn lên cùng phố xá, nên họ coi thường. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho sự chai đá, thiếu tin: Người ta đòi Chúa phải làm phép lạ tưng bừng, chứ không chấp nhận Ngài nơi những gì đơn sơ, gần gũi. Sự cứng lòng này chính là nguyên nhân của muôn rào cản: Thiên Chúa đứng sẵn đó, muốn hành động, nhưng con người khăng khăng khước từ. Cũng như Na-a-man, chỉ khi ta hạ mình và đón nhận cách thức Thiên Chúa muốn, phép lạ mới xảy ra.

Vậy chúng ta học được gì? Hãy xem bài đọc 2V 5,1-15a, khi Na-a-man không bị chinh phục bởi những hành động lộng lẫy, nhưng bởi bài học giản dị “hãy tắm bảy lần trong sông Gio-đan,” chính sự khiêm nhường, sẵn sàng để Thiên Chúa quyết định đã cứu sống ông. Bài Tin Mừng cũng tương tự, Chúa Giêsu cho thấy ơn cứu độ không tùy thuộc vào việc ta thuộc dân nào, đến từ đâu, hay có bề dày truyền thống ra sao, mà tùy thuộc vào lòng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa trong sự tin cậy. Thái độ “đòi hỏi,” “đặt điều kiện” cho Chúa – như dân làng Na-da-rét – chỉ dẫn tới khước từ, khiến ơn thánh bị chặn lại, và cuối cùng họ ghen tức, muốn trục xuất Chúa ra khỏi đời sống mình.

Nếu soi chiếu vào chính chúng ta, nhiều lần ta cũng “đóng đinh” Chúa Giêsu bằng những kỳ vọng riêng: “Chúa phải làm thế này thế kia, cho con thấy phép lạ rõ ràng, thì con mới tin.” Hoặc chúng ta tự mãn rằng mình có đạo, sống trong cộng đoàn tín hữu, nhưng lòng lại thiếu vắng sự cởi mở. Có khi, ân sủng đang sờ sờ trước mắt, trong những việc rất đỗi bình thường, nhưng ta cố chấp không nhìn ra, vì muốn Chúa phải “hoành tráng” hơn. Hoặc ta tự cho mình “chính thống,” xứng đáng lãnh ơn hơn người bên lương hay kẻ xa đạo. Bài Tin Mừng nhắc ta nhớ: Thiên Chúa sẵn sàng ban ơn cho bất cứ ai thành tâm, không phân biệt gốc gác, chỉ cần họ đón nhận. Chính con người ngoại giáo Na-a-man được chữa lành, còn biết bao kẻ trong Israel lại mất cơ hội. Người góa Xa-rép-ta được Elia giúp đỡ, còn vô số bà góa Do-thái thì chẳng được gì. Thiên Chúa không thiên vị ai, miễn là tìm thấy nơi họ sự khiêm tốn, tin tưởng.

Chúa Giêsu cũng nhắn ta một sứ điệp khác: “Mỗi môn đệ phải biết vượt qua cái nhìn hạn hẹp,” vì Người đâu chỉ đến cho riêng dân Do-thái, mà còn để toàn thế giới biết ơn cứu độ. Nhiều lần, Chúa Giêsu bộc lộ tấm lòng hướng đến dân ngoại: Ngài khen ngợi lòng tin của viên sĩ quan Rôma, của người phụ nữ Canaan… Tinh thần ấy tồn tại trong Hội Thánh, mời gọi ta mở rộng lòng, sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho mọi người, thay vì giữ khư khư cho riêng mình.

Bài học cho mỗi chúng ta là: Đừng đợi phép lạ “nổi đình đám” mới tin. Hãy nhận ra Chúa Giêsu vẫn hiện diện, làm việc qua những điều hết sức bình thường: một cuộc gặp gỡ, một lời khuyên, một bí tích ta lãnh nhận hằng tuần, một trang Kinh Thánh soi sáng. Có thể giống như dân Na-da-rét, ta quá quen với “một Giêsu tầm thường,” đến mức đánh mất sự kính sợ, mất lòng tin vào năng quyền Thiên Chúa. Cần trở lại với thái độ của Na-a-man: Dám chấp nhận chỉ thị “tắm sông Gio-đan” – một hành động xem ra rất tầm thường, để khám phá thần lực Chúa ẩn giấu trong đó.

Tin Mừng kể tiếp: Người đồng hương Na-da-rét “lôi Người ra khỏi thành” và “kéo lên đỉnh núi… để xô Người xuống vực.” Nhưng Chúa Giêsu “băng qua giữa họ mà đi.” Từ chối Chúa không làm tổn hại Chúa, mà chỉ khiến chúng ta đánh mất phúc lành. Chúa Giêsu không bao giờ ép buộc ai, nếu con người khép lòng, Ngài sẽ rời khỏi, nhường chỗ cho sự cứng cỏi “lên ngôi.” Hậu quả là chính họ lạc mất ơn cứu độ. Còn chúng ta thì sao? Hãy mở lòng, để Chúa Giêsu “ngự trị,” cho phép Lời Người “thanh lọc” những thành kiến, sẵn sàng chấp nhận phương cách cứu rỗi Chúa đề nghị. Đừng bao giờ kết luận “Chúa không hoạt động,” chỉ vì ta không thấy sự lấp lánh bề ngoài. Từng ngày, Ngài vẫn ban ơn, nhưng theo lối giản dị, thiết thực. Nếu ta tin tưởng, sẽ có ngày khám phá ra “sông Gio-đan” đời mình chính là nơi Chúa tỏ bày quyền năng.

Hãy tự hỏi: ta đang chờ đợi gì nơi Chúa Giêsu? Đôi khi, ta đòi hỏi Chúa phải can thiệp “ngoạn mục” vào cuộc đời ta, mà quên mất Ngài đang kiên nhẫn hành động nơi các bí tích, nơi lời kinh đơn sơ, nơi việc thiện nhỏ bé. Ta có đang “mời” Chúa Giêsu “ra khỏi đời” như những kẻ Na-da-rét không, khi ta lãng quên Thánh lễ, khước từ Lời Chúa, hay bất hợp tác với ân sủng? Hãy nhìn lên tấm gương Na-a-man, để hiểu rằng ân sủng Chúa chỉ phát huy khi gặp lòng khiêm tốn tin cậy. Còn những ai cậy mình có đạo lâu năm nhưng thiếu tình yêu, chỉ muốn thử thách Chúa, đặt điều kiện, sẽ rơi vào chỗ bức xúc, đẩy Chúa ra.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con, trong hành trình Mùa Chay, biết rút kinh nghiệm từ câu chuyện dân Na-da-rét. Ước chi chúng con không khép lòng như họ, nhưng sẵn sàng đón Chúa vào “thành” đời mình. Chúng con nguyện xin Chúa ban ơn để chúng con thấy Chúa trong những điều tưởng như bình thường, can đảm tuân theo chỉ dẫn Chúa với lòng khiêm tốn, như Na-a-man đã tắm bảy lần ở sông Gio-đan. Nhờ đó, tâm hồn chúng con được “chữa lành,” đức tin chúng con được kiên vững, và chúng con có thể làm chứng cho thế giới thấy Chúa yêu thương mọi người, chẳng phân biệt lương giáo hay dân tộc. Xin giúp chúng con luôn nhớ rằng, vương quốc tình yêu ấy không do phô trương phép lạ ầm ĩ, nhưng do hành động khiêm nhường và tin tưởng nơi Chúa. Và xin cho chúng con dám mở cửa tâm hồn để Chúa Giêsu bước vào và lưu lại, hầu sứ mạng yêu thương của Ngài được tiếp tục lan tỏa, nhờ chính chúng con. Amen.

Lm. Anmai, CSsR


 

ĐỪNG THÀNH KIẾN

“Khi Đức Giêsu nói: ‘Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình,’ Người không chỉ đang phản ánh một thực tế lịch sử mà còn mở ra một bài học sâu sắc về đức tin và lòng tin tưởng trong cuộc sống mỗi người chúng ta. Trong bối cảnh ngày nay, khi mà mỗi người đều đối mặt với vô vàn thử thách, những cám dỗ từ xã hội hiện đại, câu chuyện về Đức Giêsu tại Na-za-rét và tấm gương của ông Na-a-man trong sách Các Vua thứ hai mang đến cho chúng ta những suy ngẫm quý báu về cách chúng ta đối diện và vượt qua những khó khăn trong hành trình đức tin.

Đức Giêsu, khi bước vào Na-za-rét, nơi Người đã lớn lên, Người không nhận được sự chấp nhận như những ngôn sứ trước đây. Người bị nghi ngờ, bị buộc tội dựa vào thế lực của Bê-en-dê-bun để trừ quỷ, và cuối cùng, bị cộng đồng cố gắng xô Người ra khỏi thành phố. Điều này phản ánh một chân lý bất biến: nhiều khi, những ai gần gũi với chúng ta nhất lại là những người khó chấp nhận sự hiện diện và công trình của Thiên Chúa. Họ quen thuộc với con người mà họ biết, không thấy được sự vĩ đại và quyền năng của Ngài qua những phép lạ và sự hiện diện của Người.

Trong khi đó, câu chuyện về ông Na-a-man, một đại tướng Aram bị phong hủi, lại mang đến một thông điệp hoàn toàn trái ngược. Ông, dù là người ngoại đạo, lại được cứu chữa bởi ngôn sứ Elia nhờ lòng tin tưởng và sự vâng lời không điều kiện. Ông đã vượt qua những khó khăn, thử thách và lòng kiêu ngạo của chính mình để tìm kiếm sự cứu rỗi từ Thiên Chúa. Điều này cho thấy rằng đức tin thực sự không bị giới hạn bởi địa vị xã hội, nền tảng tôn giáo hay những định kiến của con người. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh rằng lòng tin và sự vâng lời chân thành mới là chìa khóa mở ra cánh cửa cứu độ.

Câu chuyện của ông Na-a-man cũng giống như câu chuyện về bầy ếch trong rừng, nơi một con ếch bị điếc đã không nghe lời khuyên từ các bạn cùng bầy nhưng vẫn kiên trì cố gắng vượt lên khỏi hố sâu. Lòng tin của con ếch ấy đã giúp nó vượt qua giới hạn, không bị bỏ cuộc trước những lời chê bai và tuyệt vọng. Tương tự, trong cuộc sống, chúng ta thường gặp phải những tình huống khó khăn, những thử thách khiến lòng tin của chúng ta bị thử thách. Nhưng như con ếch ấy, chúng ta cần giữ vững niềm tin, không để những lời chỉ trích hay sự thất vọng làm lung lay sự kiên định của mình.

Thật vậy, hành trình đức tin không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nó đòi hỏi chúng ta phải đối mặt với những khó khăn, đôi khi là những cám dỗ mạnh mẽ từ thế gian, từ những suy nghĩ tiêu cực hay từ những áp lực xã hội. Nhưng qua đó, chúng ta học được cách giữ vững lòng tin, cách vươn lên từ những vấp ngã và tiếp tục bước đi trên con đường mà Thiên Chúa đã định sẵn cho mình. Lòng tin không chỉ giúp chúng ta vượt qua thử thách mà còn là nguồn sức mạnh để chúng ta sống một cuộc đời trọn vẹn, đầy ý nghĩa và hướng về Thiên Chúa.

Bài học từ Đức Giêsu và ông Na-a-man là một lời nhắc nhở mạnh mẽ về giá trị của lòng tin và sự vâng lời trong đời sống đức tin. Chúng ta cần học cách lắng nghe lời Chúa, dù đôi khi điều đó đòi hỏi chúng ta phải bước ra khỏi vùng an toàn, phải đối mặt với sự không chắc chắn và đôi khi là sự phản đối từ những người xung quanh. Nhưng chính trong những lúc khó khăn nhất, lòng tin sẽ là ngọn đèn soi đường, giúp chúng ta không lạc lối và giữ vững niềm tin vào tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi bước đi của mình.

Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta suy ngẫm về lòng tin của mình, để tự vấn bản thân: Liệu chúng ta đã đủ kiên định trong đức tin chưa? Liệu chúng ta có đang để lòng tin dẫn dắt cuộc sống mình hay bị những khó khăn, thử thách làm lung lay? Hãy lấy tấm gương của ông Na-a-man và con ếch kiên trì làm động lực, để mỗi ngày trôi qua, chúng ta đều tiến gần hơn đến Thiên Chúa, giữ vững lòng tin và sự vâng lời trong mọi hoàn cảnh.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng, như Đức Giêsu đã chứng minh qua hành trình tại Na-za-rét, Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta, dù đôi khi chúng ta có thể cảm thấy bị từ chối hay không được hiểu đúng. Nhưng lòng tin và sự vâng lời chân thành sẽ luôn dẫn dắt chúng ta đến gần hơn với Thiên Chúa, mở ra những cánh cửa mới của tình yêu, sự tha thứ và sự sống vĩnh cửu. Hãy để mùa Chay này là dịp để chúng ta làm mới lòng mình, củng cố đức tin và tiếp tục hành trình yêu thương và phục vụ Thiên Chúa với tất cả trái tim và tâm hồn.

 

Lm. Anmai, CSsR

Danh mục:
Tác giả: