Nhảy đến nội dung

Do Thái: hành trình của một dân tộc

Do Thái: hành trình của một dân tộc

Nguyễn Ước

                        Chúa là mục tử tôi, tôi không mong muốn gì hơn,

                        Ngài khiến tôi nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh,

                        Ngài dẫn tôi đi bên mặt nước yên tĩnh

                        Ngài khôi phục linh hồn tôi

                        Ngài dẫn tôi đi trên đường công chính vì danh ngài

                        Dù có bước qua thung lũng bóng tối sự chết

                        Tôi cũng không sợ cái ác vì ngài đang ở với tôi.

            Những câu thơ ấy trong một bài Thánh vịnh của David cách đây ba ngàn năm đã và đang theo bước chân của dân tộc Do Thái đi khắp mọi nẻo đường thế giới. Chúng được cất lên trong nhà riêng, nơi hội đường, trên đồng cỏ, trong tiếng gươm dáo chiến trận hay hoan ca lễ hội, trên đường hành hương hay trong các đợt bị bách hại và giữa các trại tập trung chết chóc nhất. Chúng là niềm trông cậy, nỗi hy vọng và sức mạnh tâm linh, cốt lõi của một dân tộc lưu lạc.

            Cuộc hành trình của dân tộc Do Thái phải chăng cũng biểu tượng cho cuộc lữ hành của loài người nơi trần thế, với những kiên định và dao động, trí huệ và vô minh, thuần khiết và pha tạp, thực tiễn và thăng hoa, ngã gục và hồi phục, v.v. tới độ cho tới nay, khó có thể trả lời câu hỏi đầy chua xót rằng ai quả thật là người Do Thái, cũng như vấn nạn đầy thao thức rằng kẻ nào quả thật là con người chân chính.

Giao ước với Abraham

            Trận lụt Đại hồng thủy vừa dứt. Đất đai vừa khô ráo. Con thuyền Noah hạ xuống trên đỉnh núi Ararat với ba người con trai của ông, trong đó có Sem, kẻ sau này đứng đầu chủng tộc Semite bao gồm người Do Thái, A Rập, Assyria, Phoenicia. Và Abraham là hậu duệ trực hệ đời thứ mười tính từ Noah - qua Sem - với tên nguyên thủy là Abram. Ông sống vào khoảng 4.000 năm trước đây.

            Từ Ur, một thành phố thờ nữ thần mặt trăng Nanna và ở gần tháp Baben (ngày nay thuộc lãnh thổ Iraq), Abram với vợ là Sarah theo thân phụ là Terah cùng em là Nahor, đi dọc dòng sông Euphrates với dự tính vào đất Canaan, nhưng rồi quành sang phương bắc, định cư ở một nơi có tên là Haran trong khu vực Padan-aram. Tại đây, vào năm 75 tuổi, Abram nghe tiếng Thượng đế gọi mình: “Này Abram, hãy đi khỏi xứ này, khỏi họ hàng của ngươi và nhà của cha ngươi. Hãy tới một vùng đất sẽ được ta chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và làm cho tên của ngươi trở thành lớn lao. Qua ngươi, hết thảy các dân tộc trên thế gian sẽ được chúc phúc”.

            Không chút ngần ngại, Abram lại mang theo người vợ Sarah và cháu trai Lot cùng toàn thể gia nhân và súc vật lên đường đi Canaan, một vùng đất từ bờ sông Jordan tới biển Địa Trung Hải. Theo Kinh thánh, đó là một vùng đất đầy sữa và mật ong. Ngày nay, nhìn qua phim ảnh và so sánh với đất đai màu mỡ của Việt Nam, ta chỉ thấy miền đất hứa ấy phần nhiều là đồng khô cỏ cháy, hoang mạc với các bụi lùm lưa thưa chỉ ngang tầm đầu gối, ít cây cao bóng cả và thiếu các nguồn nước. Nhưng có lẽ đối với dân du mục, đây là vùng đất phì nhiêu bát ngát! Hoặc giả, với điều kiện sinh thái của bốn ngàn năm trước, đây từng là vùng đất xanh tươi như lời Kinh thánh mô tả.

            Tới năm Abram 90 tuổi, Thượng đế còn nói với ông thêm lần nữa rằng “Ta là Thiên chúa toàn năng, và ta lập giao ước với ngươi. Ngươi là kẻ trung thành và hết sức phục vụ ta; và ngươi sẽ là cha của nhiều dân tộc. Từ con cái của ngươi và của con cái ngươi sẽ xuất hiện những người vĩ đại và những vua vĩ đại, và hết thảy đất Canaan sẽ mãi mãi là của chúng.” Cùng với giao ước đó, Thượng đế đưa ra một dấu hiệu: các con trai trong dòng tộc Abraham, tám ngày sau khi chào đời, phải chịu cắt da qui đầu - tức phép cắt bì - như một cách tỏ cho thấy bản thân chúng chấp nhận giao kèo.     

            Kể từ lúc đó, Abram (nghĩa là “người cha tôn quí”), mang tên mới là Abraham (nghĩa là “người cha của hằng hà sa số”), tuyệt đối đi theo Đấng Thiêng liêng. Ngài là Thượng đế duy nhất, độc nhất, tối cao và đại đồng. Ngài là đấng tạo dựng vạn vật và chúa tể vũ trụ. Ngài là khởi nguyên và cùng đích của lịch sử. Trong cuộc sáng thế đang diễn tiến ngày càng tốt đẹp do ngài và vì ngài, mọi sự phát xuất từ ngài và trở về trong ngài. Ngài là nguyên nhân tác động và điều hướng mọi biến cố. Ngài là Thượng đế rất nghiêm khắc khi con người bất tuân lời ngài, và rất nhân từ khi con người vâng theo lệnh ngài.

            Bước đầu tiên Thượng đế thể hiện giao ước của mình là ban cho Abraham đứa con trai dòng chính là Isaac khi Sarah đã 90 tuổi và Abraham tròn 100 tuổi. Trước đó, ngài từng ban cho Abraham một đứa con trai với nữ tì Ai Cập Haggar, tên là Ishmael. Về sau Haggar không chịu nổi sự hà khắc của Sarah nên bồng con ra ở vùng sa mạc, và Ishmael trở thành tổ phụ của người A Rập mạnh bạo, kiên cường.

Ý nghĩa của giao ước

            Thời cổ đại, tại Lưỡng hà địa (Mesopotamia) có nhiều tín ngưỡng của con người, mang hình thức bái lạy ngẫu tượng, với niềm tin vào các thần linh có tính tự nhiên như mưa gió, sấm sét, nhật nguyệt, tinh tú hay phồn thực, liên quan tới các hiện tượng thiên nhiên, mùa màng canh tác hay sinh nở, v.v. Bên cạnh đó, còn có những người có niềm tin độc thần, nhưng riêng Abraham, ông xem tín ngưỡng mà ông đang theo không phải là tôn giáo do con người lập ra, mà là tôn giáo được Thượng đế ban cho.

            Thượng đế của Abraham và giao ước ngài đưa ra cho ông mang tính độc nhất vô nhị, nó hình thành tư duy trong suốt lịch sử mấy nghìn năm sau đó của những người xem ông là Đại tổ phụ. Ba đặc điểm đó là:

            1. Phẩm cách của con người. Nếu Thượng đế tự nguyện tiến hành giao ước này với loài người, chắc chắn ngài đánh giá loài người rất cao. Thái độ này được biểu lộ trong câu chuyện Abraham đương đầu với kế hoạch của Thượng đế qua lời tuyên bố của thiên sứ về dự tính hủy diệt hai thành phố bại hoại Sodom và Gomorrah. Khi Abraham lập luận rằng không phải mọi người ở cả hai nơi đó đều xấu xa, Thượng đế lắng nghe và chờ đợi ông kiếm cho ra vài người ngay lành. Như thế, qua thái độ đó, rõ ràng ngài tôn trọng loài người, cách riêng những con người đức hạnh.

            2. Trung thành với giao ước. Đánh dấu bước khởi đầu của dân Hebrew (tên nguyên thủy của Israel) trong quá trình giữ lòng trung thành tuyệt đối với giao ước, Thượng đế ra lệnh cho Abraham hiến tế con trai Isaac của ông để làm của lễ. Ông chấp hành không chút thắc mắc. Nhưng đúng phút giây ông khai đao lấy tính mạng đứa con yêu dấu của mình thì từ trời cao vọng xuống tiếng nói bảo ông dừng tay, và xuất hiện con cừu đực chưa thiến trong bụi cây gần đó để ông tiến dâng thay vào. Lòng tự nguyện của Abraham dâng lên Thượng đế núm ruột ông yêu quí nhất là một mẫu mực của lòng trung thành triệt để mà về sau dân Israel sẽ liều chết để noi theo.

            3. Thượng đế sắp đặt mọi biến cố. Thượng đế cho thấy và lặp đi lặp lại nhiều lần việc ngài là đấng hình thành và sắp xếp hết thảy các biến cố, để bảo đảm sự liên tục của dân ngài chọn và để hoàn thành các mục đích của ngài. Thí dụ, chính Thượng đế đặt tên cho Jacob là Israel, để sau đó trở thành danh xưng của dân tộc. Thêm nữa, Thượng đế bảo vệ Josef, con trai của Jacob, bị anh em đem bán sang làm nô lệ ở Ai Cập. Cuối cùng, ngài nâng Josef lên địa vị quan cao chức trọng để ông có khả năng cứu vớt cả nhà mình, gồm cha già và 12 anh em, làm đầu nguồn của 12 bộ tộc Hebrew (Híp-ri).

Tổ phụ Abraham

            Thời Abraham, dân Israel chỉ mới được gọi là Hebrew, nhưng ông được dân tộc đó xem là Đại tổ phụ của họ, chỉ đứng sau tổ tông của loài người là Adam. Có ít nhất bốn lý do biện minh cho địa vị tôn quí của Abraham. Thứ nhất, ông trực tiếp nhận lãnh giao ước từ Thượng đế ban cho con người, như một định mệnh được an bài cho dòng dõi của ông, qua Isaac, sau này thành dân tộc Israel, hiểu như đại biểu cho loài người. Thứ hai, với giao ước đó, ông và hậu duệ có quan hệ rất riêng tư với Thượng đế. Thứ ba, lòng tin tưởng Thượng đế của ông mang tính tuyệt đối, qua việc ông không ngần ngại hiến tế đứa con thừa tự độc nhất là Isaac theo yêu cầu của ngài. Thứ tư, lòng yêu thương loài người của ông vô bờ bến khi ông tha thiết và buồn bã khẩn cầu Thượng đế đừng hủy diệt hai thành Sodom và Gomorrah. Như thế, đó cũng là bốn đặc tính của Abraham, vị Đại tổ phụ không chỉ đối với Do Thái giáo và Kitô giáo mà còn đối với đạo Islam (Hồi giáo), nơi tên của ông được viết trong Thiên kinh Qu'ran là Ibrahim.

Cuộc lưu đày ở Ai Cập

            Ngoài Isaac, Abraham còn sinh thêm sáu người con trai khác, nhưng giao ước của Thượng đế chỉ đặc biệt dành cho hậu duệ của Isaac. Sau khi cha qua đời lúc 175 tuổi, Isaac có hai đứa con song sinh là Esau và Jacob nhưng rồi quyền trưởng nam lọt xuống tay Jacob. Sau một đêm Jacob vật lộn tới sáng với người lạ, và kế đó, chính kẻ lạ ấy - hình bóng của Thượng đế - chúc phúc và đặt cho ông cái tên Israel, có nghĩa là ”Kẻ chiến đấu với Thượng đế”. Và kể từ ông, người Hebrew được gọi là dân Israel. Jacob sinh được mười hai con trai, trong đó có đứa con áp út là Josef, như có đề cập ở trên, lưu lạc sang Ai Cập rồi làm tể tướng.

            Đất Ai Cập với phù sa sông Nile là vựa lúa của vùng Địa Trung Hải và là nơi các dân tộc chung quanh tìm đến khi gặp đói kém hay lâm cảnh hoạn nạn. Đối với gia tộc Israel cũng thế, gặp lúc đất Canaan mất mùa, thiếu ăn, toàn thể gia tộc kéo sang Ai Cập, với nhân số khoảng 70 người tính luôn cả cha già Jacob, dưới sự bảo trợ của Josef, rồi ở lại theo lời mời của Pharaoh. Trong các tộc trưởng đó, ngoài Josef, mười một người con trai còn lại là Reuven, Simon, Levi, Judah, Yissahar, Zevulem, Dan, Gad, Naftali, Asher và Benjamin, người em út.

            Chuyến đi tị nạn tưởng chỉ tạm thời trong đôi ba vụ mùa đâu ngờ kéo dài tới 400 năm. Mười hai anh em thành 12 chi tộc sống ở Goshen, vùng đất phì nhiêu của Ai Cập, thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Thế rồi thời thế đổi thay, từ 70 người di dân giờ đây phát triển thành một giống dân ngoại quốc đông lên tới hàng trăm ngàn người, gây thành mối lo ngại nội tại cho người Ai Cập. Về sau, các Pharaoh ngày càng ngược đãi người Israel bằng nhiều hình thức, bắt họ làm thợ xây cất đền đài cung điện dưới sự đốc công của người Ai Cập, và độc ác nhất là ra lệnh giết con trai vừa chào đời của họ để kềm hãm đà gia tăng dân số của người Israel.

            Một bé trai mới lọt lòng từ chi tộc Levi được một công chúa Ai Cập cứu thoát trong thúng điên điển do mẹ nó thả trong đám lau sậy bên bờ sông Nile, vì bà không nỡ nhìn con mình bị giết. Đứa bé ấy có tên là Moses. Moses lớn lên trong hoàng cung và dĩ nhiên được giáo dục chu đáo với đủ ngành học thuật dành cho một hoàng tử. Trong một lần ra ngoài dạo chơi, ông vì cứu một phu xây dựng người Do Thái nên lỡ tay giết chết tên đốc công Ai Cập.

            Biến cố đó khiến Moses trở lại thân phận làm người Israel, phải âm thầm từ bỏ cung điện. Trong khi trốn tránh nơi hoang mạc xa ngút ngàn, làm kẻ chăn cừu, Moses nhận được lệnh của Thượng đế phải quay về Ai Cập để lãnh đạo cuộc giải thoát dân Israel đang bị câu thúc. Ông vâng lời, nhưng không thuyết phục nổi vua Pharaoh chịu để cho dân Israel ra đi. Để tạo thêm sức ép cho lời yêu cầu của Moses, Thượng đế giáng mười tai họa xuống dân Ai Cập mà cái sau cùng là giết chết trưởng nam cũng như những con vật đực đầu lòng của họ. Do đó cuối cùng, Pharaoh đành phải để dân Israel lên đường. Biến cố vượt thoát ly kỳ này được ghi lại trong Kinh thánh (sách Vượt qua), mang người Israel trực chỉ miền đất Canaan mà Thượng đế đã hứa cho họ từ thời Abraham.

Bốn mươi năm trong hoang mạc

            Cuộc lên đường gay cấn của 400.000 người diễn ra trong khoảng thế kỷ 13 TCN. Ngày nay, nhìn vào bản đồ, người ta có thể thấy thay vì đi thẳng chỉ tốn một khoảng thời gian ngắn, đoàn người Israel đã đánh một vòng quanh hoang mạc rồi loanh quanh lẩn quẩn mất tới bốn mươi năm. Bằng cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm, Thượng đế hướng dẫn họ khi tiến bước, khi dừng chân. Sự giáng lâm hữu hình Shekinah ấy còn cụ thể ở Nơi Cực thánh (Holy of Holies) trong Lều Trướng mà mỗi khi cần thiết, Moses có thể trò chuyện trực tiếp, tuy không được phép thấy mặt ngài. Như vậy lãnh đạo thật sự chính là Thượng đế đích thân, còn Moses chỉ là kẻ điều động, công cụ của ngài.

            Bốn mươi năm hành trình là thời kỳ tôi luyện con người Israel. Làm sao một dân tộc quen sống trong cảnh sung túc rồi bị nô lệ hàng trăm năm có đủ tính cách và bản lãnh để có thể chinh phục vùng đất trước mặt và xây dựng một quốc gia hùng mạnh trong tương lai. Làm sao lời giao ước của Thượng đế, vốn thuần túy là những hứa hẹn, được pháp chế hóa thành luật lệ và thiêng liêng hóa trong những giới luật, nghi thức mang tính tôn giáo. Để có khả năng tiếp nhận miền đất hứa và xứng đáng làm người chủ của nó, dân tộc Israel phải trải qua cuộc thanh tẩy trong đạo đức, thao luyện qua gian khổ và sinh hoạt vào khuôn phép. Quả thật, tường trình về chuyến băng ngang sa mạc ghi nhận đầy đủ những tin tưởng và phản bội, trông cậy và sa ngã, chiến đấu và thất bại, non nớt và trưởng thành, v.v. Đối với một số học giả, đó là lời giải thích cho cuộc đi vòng quanh và lẩn quẩn quá dài ngày mà thoạt trông tưởng là lạc lối hoặc phi lý.

Giao ước với toàn thể dân tộc

            Trước đây, Thượng đế giao ước riêng với Abraham, còn lần này, trong cuộc hành trình về miền đất hứa, ngài giao ước với toàn thể dân tộc Israel qua những lần Moses lên đỉnh núi Sinai để trực tiếp gặp ngài. Từ đỉnh núi đi xuống, Moses chuyển giao cho dân tộc Israel các huấn thị minh bạch của Thượng đế. Thượng đế lúc này tỏ lộ danh xưng là Y-H-W-H, nghĩa là “Ta là kẻ ta là”, gọi là Gia-vê (có nơi phiên âm lầm thành Giê-hô-va) vì việc kêu lên Thánh Danh ngài là điều cấm kỵ tuyệt đối nên có thể gọi ngài là Elohim, Thiên chúa, Thượng đế, Đức chúa, v.v. Còn về khuôn mặt thì không một ai trông thấy ngài mà sống sót, ngay cả Moses cũng chỉ được phép thấy bóng lưng ngài. Và đặc điểm của giao ước lần này cũng rất cụ thể, đó là chừng nào dân Israel ngài đã chọn còn hoàn toàn vâng theo lời ngài và chỉ tôn thờ một mình ngài, chừng đó nó còn được ngài che chở mọi mặt. Ngài đã nói rất rõ rằng, “Ngươi sẽ không có những thần nào khác trước mặt ta. Ngươi sẽ không tạc những hình tượng hoặc bất cứ cái gì tương tự, bằng bất cứ cái gì nơi trời bên trên, hoặc nơi đất bên dưới hoặc nơi nước bên dưới đất. Ngươi sẽ không bái lạy chúng hoặc thờ phụng chúng, vì ta là Thiên chúa của ngươi, đấng Thiên chúa ghen tương.”

            Trong lần tái xác nhận và giao ước với Israel này, Thượng đế truyền Mười giới răn, được ngài khắc sẵn trong hai tấm bia đá và trao tận tay Moses. Có thể rút gọn chúng như sau:

                        1. Ta là Thiên chúa của các ngươi, đấng mang các ngươi ra khỏi Ai Cập, và ra khỏi cảnh câu thúc;

                        2. Ngươi sẽ không có các thần nào khác ngoài ta ra;

                        3. Ngươi không được vô cớ kêu tên của Thiên chúa;

                        4. Hãy nhớ ngày Sabbath và giữ nó làm ngày lễ nghỉ;

                        5. Ngươi hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi;

                        6. Ngươi sẽ không giết người;

                        7. Ngươi sẽ không phạm tội ngoại tình;

                        8. Ngươi sẽ không ăn cắp;

                        9. Ngươi sẽ không làm chứng gian dối chống lại người bên cạnh;

                        10. Ngươi sẽ không tham muốn vợ của người bên cạnh hay bất cứ cái gì khác của người bên cạnh.

            Cùng với Mười giới răn là vô số huấn thị khác của Thượng đế, làm thành bộ kinh Torah (gồm năm cuốn đầu của Kinh thánh, gọi là Ngũ kinh - Pentateuch) mà người Do Thái tin rằng Moses chính là tác giả của nó: ông nhận được từ Thượng đế qua ngôn từ trực tiếp và khải thị thiêng liêng rồi truyền lại cho dân chúng. Ngoại trừ phần tường tình về công cuộc sáng thế, bộ kinh Torah đưa ra qui định lề luật từ việc nhỏ nhất về vệ sinh thân thể tới cúng tế, từ cưới hỏi tang chế tới ăn uống kiêng khem (kosher), các lễ lạc từ ngày Sabbath hàng tuần tới các ngày lễ trọng thể và bán trọng thể quanh năm, v.v.

            Tất cả gồm 613 giới luật với chỉ dẫn cụ thể và chi tiết về cách phải làm và cách không được làm. 613 giới luật đó bao gồm 248 phát biểu tích cực về cách phải làm tương ứng với 248 bộ phận của thân thể, và 365 lời phát biểu về cách không được làm, tương ứng với 365 ngày của một năm theo lịch Do Thái, trên cơ sở âm lịch. Việc thực thi giới luật xoay quanh nguyên tắc rằng vâng lời Thượng đế có nghĩa là tuân giữ lề luật của ngài. Bên cạnh kinh Torah được Moses công khai truyền cho dân Israel mà về sau được ghi thành văn bản, người Do Thái tin rằng còn có kinh Torah được Moses chỉ khẩu truyền cho các đệ tử thân tín và bất thành văn, đó chính là phần huyền học hay còn gọi là bí pháp Kabbalah.

Thượng đế, kinh Torah và Israel

            Kể từ đó, Thượng đế, kinh Torah và Israel là ba thành tố bất phân ly trong đời sống của người Do Thái.

            Trên đường lữ thứ nơi hoang mạc, cứ mỗi thời kỳ dừng chân, dân Israel dựng Lều Trướng. Ở đó, tại Phòng Cực thánh (Holy of Holies), họ đặt Hòm Giao ước trong đó đựng hai bia đá ghi Mười giới răn. Lều Trướng bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm, chung quanh là lều trại của 12 bộ tộc. Thượng đế hiện thân làm Shekinah, trong đám mây hay cột lửa dẫn đường đi tới hay dừng lại và trở thành quầng sáng bên trên Lều Trướng. Trên con đường đoàn người tìm về miền đất hứa Canaan, Thượng đế ban cho họ thức ăn, nước uống hằng ngày, thẳng tay trừng trị họ khi có người phạm tội hay khi cộng đoàn dao động, đồng thời phù hộ họ mỗi khi phải giao chiến với các bộ tộc bản địa thù nghịch.

            Lều Trướng là tiền thân của Đền thánh Jerusalem mà sau này, Thượng đế cũng ngự ở Nơi Cực thánh, căn phòng nội điện, chỉ duy nhất thượng tế được vào mỗi năm một lần và chỉ được gọi Thánh Danh ngài trong lần đó. Và rồi suốt mấy ngàn năm sau, khi định chế hội đường trở thành tâm điểm của sinh hoạt cộng đoàn Do Thái giáo, hội đường nào cũng qui hướng về Jerusalem và có một Hòm thánh trong đó đựng cuộn kinh Torah viết trên giấy da. Và tuần nào cũng lấy ra đọc một trích đoạn cho cộng đoàn nghe trong ngày Sabbath.

Vào miền đất hứa

            Suốt bốn mươi năm dài đăng đẳng đó, không phải đoàn người lữ thứ hoàn toàn quanh quẩn mịt mù trong sa mạc. Đã có lần họ tới được bên rìa của miền đất hứa Canaan, trông thấy nó, và Moses từng cử một đoàn thám sát vào thăm dò nó. Nhưng lần đó, dân Israel mới chỉ như con người thoáng thấy chân lý, rồi lại bị trôi xa bờ và dạt giữa dòng đời. Sau những gian nan khi tiến khi lùi gần như bất tận, đoàn người lữ thứ lên tới khoảng 600.000 người, và chuyển sang một thế hệ mới, với tinh thần mới và tính cách mới. Họ trở nên kỷ luật hơn, thiện chiến hơn, đạo đức hơn, và như thế, chỉ có thế hệ mới này mới đủ tiêu chuẩn đặt chân lên miền đất hứa. Ngay cả bản thân Moses, người của thế hệ cũ, cũng chỉ được lên núi cao đưa mắt ngắm nó trước khi nhục thể phải nằm lại tại Moab, dưới một nấm mồ không bia mộ, ở thung lũng giáp ranh với Canaan.

            Mang theo Lều Trướng và Hòm bia Giao ước trong đó đựng Mười giới răn, và mang theo lời truyền khẩu về Lề luật mà ba trăm năm sau, dưới thời Hoàng đế Solomon, được ghi lại thành bộ kinh Torah, đoàn người vượt sông Jordan vào vùng đất hứa Canaan. Trong khi các xứ sở chung quanh có vua chúa, thờ phụng nhiều thần linh bản địa bằng ngẫu tượng và theo tôn giáo tự nhiên, chỉ một mình dân Israel thờ phụng một Thượng đế duy nhất, biến niềm tin thành giới luật và thoát ra ngoài sự sùng bái quỉ thần cùng mê tín dị đoan.

            Miền đất hứa ấy được chia vùng cho 12 bộ tộc sinh sống, còn Lều Trướng với Hòm bia Giao ước đặt tại Shiloh. Từ khoảng năm 1200 cho tới năm 1047 TCN, các bộ tộc Israel sống bằng canh nông và chăn nuôi. Họ không có vua, không có chính quyền trung ương, mọi sự được phân xử bởi các thủ lãnh, còn gọi là thẩm phán. Thẩm phán là người được lấy từ các kỳ mục vị vọng, có trách nhiệm đặc biệt phân xử về đất đai, hôn nhân và các sự việc liên quan tới lề luật. Đồng thời, thẩm phán còn lãnh đạo những cuộc hành quân phối hợp giữa các bộ tộc trong những trận đánh với các dân tộc chung quanh, đặc biệt với quân Philistine, tiền thân của người Palestine sau này. Người sau cùng và nổi tiếng nhất là thủ lãnh Samson, thuộc bộ tộc Dan, nhà dũng sĩ vô địch đã dùng cái chết để lập chiến công tối hậu và chuộc tội sa ngã nữ sắc của mình. Thời kỳ này được ghi lại trong sách Thủ lãnh (còn được dịch sang tiếng Việt là sách Thẩm phán).

Thời kỳ của hoàng đế

            Tình trạng tranh chấp và chia rẽ giữa các bộ tộc cùng những xung đột với các dân tộc bản địa chung quanh dần dà vượt quá tầm giải quyết của thủ lãnh (thẩm phán). Đã tới thời điểm người Israel đòi phải có vua, bất chấp lời cảnh cáo của Thượng tế và Ngôn sứ Samuel về một tương lai sẽ đánh mất quyền làm chủ sinh mạng và của cải vào tay đức vua, đồng thời sẽ than khóc vì mình đã chọn loại lãnh đạo đó. Cuối cùng Thượng đế đành để cho Samuel đi tìm và xức dầu tấn phong Saul, người thuộc bộ tộc Benjamin lên làm vua.

            Saul, vị vua đầu tiên của Israel, là một hoàng đế dũng mãnh, bảo vệ được dân chúng và đặt nền móng cho công cuộc lập quốc. Nhưng rồi quyền lực trần thế biến ông thành người điên loạn. Ông hãm hại kẻ trung lương là David, ân nhân của ông và cũng là người được trời định phận sẽ kế vị ông. Cực điểm hư hoại của Saul là đánh mất niềm tin vào Thượng đế, dao động tới độ vi phạm điều ngài triệt để nghiêm cấm, khi ông nhờ đồng bóng triệu hồn Samuel để đích thân hỏi về hậu vận của mình. Cuối cùng, Saul tự sát ngoài chiến trường trong lúc đối đầu với quân đội Philistine. Đời làm vua của ông kéo dài 37 năm, bắt đầu từ năm 1047 và kết thúc vào năm 1010 TCN.

            Kế tục Saul là David, thuộc bộ tộc Judah và xuất thân mục đồng, là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Israel. Qua David, Thượng đế hoàn thành lời hứa với Abraham, biến Israel thành một quốc gia vĩ đại. Làm vua Judah năm 1010 TCN và hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước Israel năm 1003 TCN, David là vị vua anh hùng, mở đầu cho Nhà David với Ngôi sao David biểu tượng cho dân tộc Do Thái, gồm hai hình tam giác đều đặt ngược nhau và đồng tâm; nối các điểm tiếp giáp thì sẽ cùng với các mũi nhọn làm thành 12 tam giác nhỏ, tiêu biểu cho 12 bộ tộc. Thêm nữa, David được qui là tác giả của sách Thánh vịnh, dùng làm cốt lõi cho kinh nguyện Do Thái giáo suốt mấy ngàn năm nay. Đặt Zadok làm Thượng tế, nhà vua bắt đầu chuẩn bị xây đựng Đền thánh Jerusalem, thay thế Lều Trướng để làm tâm điểm cho Do Thái giáo và biến kinh đô Jerusalem thành Thành thánh của dân tộc hay còn gọi là Thành David.

            David qua đời năm 970 TCN, nối ngôi là hoàng tử Solomon (Sa-lô-môn), kẻ tiêu biểu cho minh triết Israel và được Thượng đế ban cho đầy đủ khôn ngoan. Thời đại Solomon thịnh trị, thu phục được lòng tin của lân bang, mở rộng ngoại thương tới các xứ xa. Về mặt điển chế, kinh Torah được ghi thành văn bản dưới triều của vị vua này. Về mặt cơ sở thờ phụng, Solomon nối tiếp ý nguyện của phụ hoàng; năm 960 ông cho khởi công xây lên Đền thờ Jerusalem, và rồi nó được xem là kỳ quan đệ nhất của thế giới thuở đó.

            Đền thờ hay còn gọi là Đền thánh Jerusalem là một quần thể mà tòa nhà chính dài khoảng 28 thước, rộng 9 thước, cao 13 thước với các cột đồng khổng lồ được trang trí tinh xảo bằng hoa văn cây thạch lựu và hoa huệ; những hành lang cao và rộng bọc quanh toà nhà chính; các bức tường khổng lồ bên ngoài dát vàng lóng lánh, bên trong làm bằng gỗ cây bá hương thiêng liêng và rắn chắc của Li-băng (Lebanon), một loại cây không có mắt gỗ, không bị mọt và không mục, thường được nói đến trong Kinh thánh, và là loại gỗ xây dựng tốt nhất.

            Tòa nhà lộng lẫy ấy, nơi thờ tự đầu tiên của một dân tộc du mục vừa chuyển qua lối sống định cư, là cấu trúc mang lại uy danh mới cho vương quốc, hẳn phải phản ánh khả năng kiến trúc của những dân tộc có nhiều kinh nghiệm xây dựng hơn người Do Thái thuở đó. Thợ khắc gỗ người Phoenicia tài cán nhất đương thời, được thuê sang để thực hiện các phù điêu. Thợ chuyên môn từ thành phố Tir đẽo các khuôn đúc những vật bằng đồng. Thêm vào đó là các thợ thủ công và sự tiếp tay của lực lượng lao động gồm ít nhất ba chục ngàn người Israel. Công trình vô tiền khoáng hậu ấy cần thời gian tới bảy năm mới hoàn tất.

            Bằng sự phong phú vật liệu hơn là tính cách cá biệt của mô hình, Solomon ra sức ganh đua với những gì hoành tráng nhất trong đền đài ở các xứ khác. Những con cừu, vật chứa hương trầm, kẹp gắp lửa, chảo nấu và những đồ dùng trong lễ thượng hiến tế vật đều được làm bằng vàng. “Biển nước” kỳ bí làm bằng đồng nguyên chất dùng cho nghi thức tẩy uế, chứa gần 40.000 lít nước và cân nặng khoảng 30 tấn. Bên trong, nơi hậu tẩm Cực Thánh mà chỉ vị thượng tế mới được phép đặt chân vào mỗi năm một lần đúng ngày lễ Đền tội, có hai thần phẩm có cánh Cherubim to lớn, làm bằng gỗ ô-liu và thiếp vàng, đứng canh giữ Hòm bia Giao ước.

            Đối với tín đồ, vẻ nguy nga lộng lẫy của Đền thờ và nỗ lực xây lên một tòa nhà tối thượng như thế không nhằm làm bằng chứng cho vinh quang trần thế của dân tộc mình, mà chỉ là để tương xứng với sự hiện diện của Thượng đế, Đấng Chúa tể Vũ trụ, Đấng đã giải thoát dân của ngài khỏi cảnh câu thúc ở Ai Cập, đem họ vào đất hứa và giúp họ đánh bại các kẻ thù. Cho tới mấy ngàn năm sau, Đền thánh của Solomon vẫn sáng lung linh trong tâm tưởng và Thành thánh Jerusalem vẫn là linh địa của người Thiên chúa giáo.

            Thế nhưng cuối cùng, quyền lực vẫn có khả năng làm băng hoại Solomon, kẻ được Thượng đế ban cho làm người khôn ngoan nhất thế gian. Ông mất bảy năm để xây cất Đền thánh Jerusalem nhưng bỏ ra 30 năm để xây dựng các lâu đài của hoàng cung. Cùng với lợi tức do Solomon kiếm được nhờ ngoại thương, dân chúng phải chịu sưu cao thuế nặng, mới có thể trang trải nổi những phí tổn của quốc gia. Nhà vua có một hậu cung với 700 hoàng hậu, 300 phi tần trong đó nhiều phụ nữ ngoại giáo, và ông dựng các tế đàn ở vùng đồi cao núi sâu để họ cúng tế các thần ngoại giáo của họ.

            Solomon vị vua uy hùng cuối cùng của Israel, qua đời năm 931 TCN, trao lại vương quyền cho con là Rehoboam với một vương quốc trên đà hổn loạn. Nói chung, thời đại David-Solomon là thời kỳ huy hoàng nhất của Israel. Nó là đối tượng hằng cửu của hoài niệm đầy tự hào và mơ ước nóng bỏng của dân Do Thái từ ba ngàn năm nay. Và kể từ ngày đất nước chia đôi rồi dân chúng bị lưu đày, nó củng cố thêm hình ảnh Đấng Cứu thế được trông đợi sẽ xuất hiện từ Nhà David để tái lập quốc gia, tái xây dựng Đền thờ Jerusalem, khôi phục vương quyền, đem Israel trở lại thời hoàng kim cổ đại, và đặt dân tộc Israel nổi bật nhất giữa các dân tộc.

Chia thành hai vương quốc

            Năm 930, Jeroboam, người không thuộc hoàng tộc David, lãnh đạo cuộc nổi loạn của mười bộ tộc phương bắc và lập nên nước Israel. Chỉ còn lại hai bộ tộc Judah và Benjamin trung thành với Nhà David làm thành nước Judah ở phương nam, trong đó có Đền thờ Jerusalem.

            Chọn Samaria làm kinh đô, Jeroboam muốn xây dựng trong nước Israel của mình một đền thờ ở Bethel thay cho Jerusalem nhưng với một số biểu tượng ngoại đạo. Và cùng với chúng là các vị vua hậu duệ của ông bái lạy thần linh ngẫu tượng. Đây là thời của các ngôn sứ như Đại ngôn sứ Elijah và đệ tử kế thừa là Elisha, cùng với các ngôn sứ khác như Amos, Hosea, và Jonah.

            Tuổi thọ của vương quốc Israel phương bắc chỉ được khoảng 200 năm. Tới năm 720 TCN, Israel bị xâm chiếm bởi Đế quốc Assyria, một cường quốc ở vùng Lưỡng hà địa (nay là Iraq), tọa lạc tại thượng nguồn sông Tigris với thủ đô là Niniveh. Mười bộ tộc phương bắc bị lưu đày tứ tán, trở thành mười bộ tộc thất lạc đâu đó mà có lẽ sẽ không bao giờ quay về đất Canaan, ngày nay là Palestine. Có ít nhất bốn nhóm dân tộc ở Ấn Độ, và các dân tộc ở châu Phi, Trung Á, xưng mình là hậu duệ của 10 bộ tộc này. Trong đó có cả người Khương sống ở Cam Túc, Thanh Hải, từng nổi loạn chống lại nhà Đông Hán năm 110 SCN, và một số người Hoa tại Khai Phong ở Hồ Nam.

            Vương quốc miền nam Judah kéo dài tuổi thọ tới năm 587 TCN rồi cũng bị xâm chiếm bởi Babylon, một đế quốc mới, phát xuất từ vùng Lưỡng hà địa. Đền thờ Jerusalem sau bao nhiêu lần bị các vua Judah phương nam rút tỉa để cống nạp, và bị các toán quân Assyria cướp phá khi mượn đường hành quân, cuối cùng, bị san thành bình địa bởi đạo quân xâm lăng người Babylon. Tại miền nam, đây cũng là thời kỳ của các ngôn sứ như Isaiah, Jeremiah, Zechariah, Habbakkuk, Joel, Micah, Obadiah và Zephaniah.

            Có thể nói đây là thời đại của các ngôn sứ. Trong hoàn cảnh dân tộc Israel phân hóa, đất nước chia cắt, các vua tiếp theo Solomon, ở cả nước Judah miền nam lẫn nước Israel miền bắc, đánh mất sự tôn trọng của dân chúng, thì tiếng nói của các ngôn sứ cất lên dõng dạc. Các ngôn sứ trở thành thủ lãnh thật sự của xứ sở. Họ tạo niềm hứng khởi cho dân tộc, và đặc biệt cảnh giác, phê phán dân chúng, hô hào chấn hưng đạo đức. Thậm chí nhiều ngôn sứ chỉ trích kịch liệt nhà vua và sẵn sàng chấp nhận hậu quả nguy hiểm của hành động đó. Ngôn sứ nói lên tiếng nói của Thượng đế, tố cáo cái ác, báo trước thảm hoạ sắp xảy tới, và sẵn sàng đổ máu mình ra để làm chứng cho chân lý của lời mình nói.

            Đây cũng là thời kỳ Ngôn sứ Elijah với ngọn lửa nhiệt tình, trấn áp việc thờ phụng tà thần, và cứu khổn phò nguy cho người bị thiên tai lẫn nhân tai. Theo gót ông là Ngôn sứ Elisha, đệ tử chân truyền. Ngôn sứ Isaiah mô tả kỹ lưỡng về Đấng Cứu thế, xuất thân từ Nhà David và giáng lâm để giải phóng dân tộc Israel, phục hồi thời đại hoàng kim David-Solomon, đoàn kết các dân tộc trên thế giới trong hòa bình, phân xử trong công bằng và chính đáng cho đến muôn đời.

Cuộc lưu đày và hồi hương

            Khi các đế quốc lần lượt nổi lên thì vùng đất Israel là địa điểm chiến lược. Nó trở thành một hành lang nằm giữa biển cả và sa mạc, cung cấp cho đoàn thương buôn và đạo quân chinh phục một con đường độc nhất có sinh khí xuyên giữa các quốc gia rộng lớn và hùng mạnh giáp ranh nó như Ai Cập và Syria, Lebanon, vùng đất Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, v.v. Thế kỷ này nối tiếp thế kỷ kia, hàng ngàn năm này sang ngàn năm khác, những cuộc diễu hành lũ lượt đi qua nó: các binh đội của vua Ai Cập, những đoàn bộ hành A Rập; xe trận từ Assyria và kỵ binh từ Babylon, sau này người Ba Tư với Cyrus, Macedonia với Đại đế Alexander và rồi tới lượt người Hi Lạp, La Mã, Parthia, v.v.

            Nhưng những đợt sóng quét dân tộc Israel một phần sẽ dâng lên về sau. Lúc này, và có lẽ cũng giống với mọi thời, muốn tiêu diệt một dân tộc, phải phá hoại tôn giáo, cái làm thành sức mạnh tâm linh và định chuẩn đạo đức của nó. Vì chỉ những người đạo sâu đức dày, tâm linh phong phú mới có khả năng làm anh hùng liệt nữ, và một dân tộc dù khốn khó mà có đạo nghĩa, vẫn giữ được bản lãnh quật cường. Trường hợp này tuyệt đối đúng với người Do Thái. Đền thờ Jerusalem bị triệt hạ; toàn thể dân chúng, kể cả vua của nước Judah, bị bắt sang sống lưu đày ở kinh đô Babylon. Và cũng kể từ đó, họ được gọi là người Judah (Jew: Do Thái), để phân biệt với các sắc dân khác cũng ở trong Đế quốc Babylon mênh mông.

            Cuộc lưu đày này tuy chỉ kéo dài chưa tới năm chục năm nhưng để lại những dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Do Thái tha hương và trong văn học của họ. Ta đọc thấy những lời như sau:

                        Cô đơn biết bao ngồi chốn thành đô một thuở đông người

                        Giống biết mấy quả phụ kia, thuở cao vời giữa các dân tộc

                        Và công chúa giữa các tỉnh thành

                        Nàng hôm nay tên lệ thuộc

                        Đêm về thảm thiết khóc than nước mắt đẫm má

                        Chẳng ai an ủi nàng

                        Trong những kẻ nàng yêu.

            Và họ cũng hát lên những bài ca ai oán cho thân phận kẻ cam chịu cảnh lưu đày giữa chốn kinh thành hoa lệ Babylon:

                        Bên những dòng sông Babylon

                        Nơi tôi ngồi xuống, ôi tôi khóc

                        Khi nhớ về Zion.

            Nhưng Hoàng đế Nebuchadnezzar (k.634-562 TCN) cũng không phải là người hoàn toàn khe khắt với dân Do Thái. Và có lẽ trong thời gian này bắt đầu xuất hiện hình thức Hội đường (Synagogue) - trung tâm thờ phụng và sinh hoạt tinh thần của cộng đoàn Do Thái giáo. Một khuôn mặt lưu đày hàng đầu là Ngôn sứ Ezechiel với những tiên báo về sự hủy diệt kẻ thù của Judah bằng lửa và động đất, việc hồi hương Israel, và bằng cung giọng mang tính cứu thế, về sự tái lâm của vua David và sự phục hưng vương quốc.

Về từ chốn giam cầm

            Rồi gió thịnh suy trần gian cũng phải đổi chiều. Bánh xe trận của đế quốc Ba Tư nghiền nát đế quốc Babylon. Năm 539 TCN, Đại đế Cyrus của Ba Tư cho phép người Do Thái hồi hương. Đoàn người mà phần nhiều là người nghèo, vượt vạn dặm để trở về cố thổ đang nằm điêu tàn quá bên kia bờ sa mạc. Người giàu ở lại Babylon, mà hơn 500 năm sau, hậu duệ của họ sẽ tiếp nhận thêm một đợt lưu vong mới và có những đóng góp lớn lao về giáo thuyết.

            Công trình đầu tiên khi trở về quê cũ là xây dựng lại Đền thánh Jerusalem vì từ những ngày bên bờ sông Babylon, dân Do Thái đã đau đáu nỗi niềm “Ta mà quên ngươi, hỡi Jerusalem, thì tay phải ta cũng hãy quên ta.” Viên đá đầu tiên được đặt xuống cùng với sự yễm trợ tinh thần lẫn vật chất của Hoàng đế Ba Tư. Hiện nay, ta không còn giữ được văn bản mô tả cụ thể nào về Đền thờ thứ hai này nhưng chắc chắn nó không hoành tráng bằng Đền thờ thứ nhất của Solomon. Và năm trăm năm sau, nó bị Đại đế Herod triệt hạ để xây lên Đền thờ Jerusalem thứ ba mà theo cao vọng của vị vua cải giáo này, phải làm sao cho nguy nga hơn Đền thờ thứ nhất.

            Thế nhưng chính những sinh hoạt tôn giáo diễn ra trong Đền thờ mới quan trọng. Việc cúng tế mỗi ngày một con cừu vẫn diễn ra hằng ngày, suốt hơn năm trăm năm, kể cả trong thời gian Đại đế Herod xây dựng Đền thờ thứ ba. Quanh năm, lễ Vượt qua và lễ Ngũ tuần vẫn tấp nập người hành hương, đến từ mọi miền trong nước và các vùng tản mác nơi hải ngoại. Đền thờ vẫn là tâm điểm của dân tộc Do Thái với cuộc sống kính sợ Thượng đế, từ tâm với người có nhu cầu và nghiêm ngặt giữ cho bằng hết các lề luật chi li và nhiêu khê được qui định trong kinh Torah. Kinh này cũng được Ngôn sứ Ezra san định lại, với nội dung có lẽ hoàn toàn giống với bản ngày nay chúng ta đang có.

            Sinh hoạt Đền thờ và tôn giáo cũng làm bền vững thêm tư thế của giới tư tế cha truyền con nối mà bây giờ được gọi là Sadducee, hậu duệ của Thượng tế Zadok thời David. Qua hình ảnh của Thượng tế cùng với hệ thống một tập đoàn tư tế đông đúc trên khắp đất nước, họ là những người lãnh đạo dân tộc. Vào thế kỷ cuối trước Công nguyên, trong một lễ hội như Vượt qua, tại Đền thờ Jerusalem có khoảng 17.000 tư tế và người Levi lo phục dịch Đền thờ. Bên cạnh Thượng tế và khoảng 200 chánh tư tế, có khoảng 7.200 tư tế thường và 9.600 người Levi. Quanh năm, các tư tế ở khắp nước đều theo từng lộ mà được cắt cử luân phiên về phụ trách việc tế lễ hằng ngày tại Đền thờ.

            Sinh hoạt tôn giáo thường nhật và kinh sách làm sản sinh người Pharisee (nghĩa là kẻ chống đối) gồm các học giả (kinh sư), các thầy cả (rabbi), ký lục, v.v. mà ngày càng đối lập với người Sadducee, giới tư tế có quan điểm bảo thủ, và là đầu mối của các bất hòa tôn giáo và xung khắc trong các vấn đề nội bộ của người Do Thái. Vào đầu Công nguyên, tại Jerusalem có hai trường phái Pharisee với hai tôn sư nổi tiếng, một là của Đại thầy cả Shammai, hai là của Đại thầy cả Hillel. Bên cạnh đó còn có người Essene khổ hạnh tại tu viện Qu'ram, mà gần hai ngàn năm sau, lôi cuốn sự chú ý của giới học giả quốc tế nhờ các tài liệu Kinh thánh họ để lại trong các hủ gốm giấu rải rác quanh đó. Mãi tới năm 1947, chúng mới được một người chăn cừu Bedouin tình cờ phát hiện, mở đầu cho cuộc tìm kiếm nhiều hủ gốm khác, làm thành những tài liệu được gọi là Các cuộn sách Biển Chết (Dead Sea Scrolls).

Lệ thuộc các đế quốc

            Kể cả trong thời hoàng kim của Nhà David, Israel chưa bao giờ có một quân đội hùng mạnh đủ sức khống chế lân bang. Từ Ba Tư trở về, vùng đất Judea, mà về sau gọi là Palestine (nghĩa là “đất của người Philistine”), trở thành thuộc địa và hành lang chiến trận cho các đế quốc. Nền cai trị của Ba Tư sụp đổ khi bánh xe trận của Alexander Đại đế lăn qua Palestine năm 332 TCN, mang theo tôn giáo cùng văn hóa Hi Lạp và mở đường cho nền văn hóa ấy phát triển rực rỡ với các thành phố mang sắc thái của nó mọc lên khắp bờ Địa Trung Hải. Sau cái chết của vị Đại đế trẻ tuổi ấy, Judea lệ thuộc một cận tướng của ông là Ptolemy, lúc này xưng vương tại Ai Cập. Còn cận thần thứ hai là Seleucus cũng xưng vương tại Syria.

            Trong khung cảnh đó, mỗi xứ sở thuộc địa được cho quyền tự quản với phạm vi rộng rãi. Do đó tại Judea – tức là xứ Palestine lúc ấy – vị Thượng tế hành xử như một ông vua bình thường. Ngoài nhiệm vụ làm thủ lãnh tôn giáo của dân tộc mình, ông còn là chủ tịch của Hội đồng Công nghị (hay Thượng hội đồng) gồm các trưởng lão (kỳ mục) và là người giám sát các vấn đề an ninh, cung cấp nước và thu thuế. Người Do Thái được hưởng quyền tự do thờ phụng và quyền tuân giữ lề luật của tổ tiên khi thích hợp.

            Dù trực thuộc hoàng đế Ptolemy ở Ai Cập hay tổng trấn ở Syria và rồi vua Syria, có lẽ người Do Thái cũng chỉ muốn được bình yên để thờ phụng và sinh sống. Họ chỉ có phản ứng mạnh mẽ khi tín ngưỡng Do Thái giáo và đặc biệt Đền thờ Jerusalem bị xâm phạm hay bị làm ô uế.

Sách nhiễu tôn giáo và nổi loạn

            Căn cứ trên qui định ẩm thực của Do Thái giáo gọi là kosher thì có loại thịt và cá bị cấm ăn, Thí dụ thịt heo và loài giáp xác (động vật không có xương sống, có vỏ cứng ở ngoài cơ thể, thở bằng mang như tôm, cua, vv.), bị coi là “không tinh khiết”. Như thế không phải bất cứ con vật nào cũng có thể bị giết chủ yếu chỉ để ăn thịt. Và cấm toàn bộ máu, vì như đã có lời trong sách Đệ nhị luật 12:33 rằng “Máu là sự sống”, và phải được coi là thiêng liêng, dù ở trong loài vật. Thậm chí bát dĩa nồi niêu soong chảo cũng phải chưa từng đựng các thực phẩm bị cấm.

            Khi người Syria ra lệnh cấm người Do Thái học kinh Torah, cấm giữ ngày Sabbath và không được cắt bì, bắt ăn thị heo và dùng máu heo rắc lên Đền thờ Jerusalem, hơn nữa, còn dùng nơi đó để tế thần Zeus, người Do Thái thà chết còn hơn chấp nhận. Năm 167 TCN, tại tây bắc Jerusalem, lính của vua Syria tập trung dân chúng lại yêu cầu tư tế Mattathias làm lễ cúng một con heo. Sự việc ấy đưa tới vụ khởi nghĩa của dòng họ Maccabea. Nghĩa binh chiếm được và tẩy uế Đền thờ Jerusalem năm 164, mở đầu triều đại Hasmonea thái bình thịnh trị, kéo dài tới 80 năm.

            Khi tướng Pompey (106-48 TCN) đánh bại Nhà Maccabea vào năm 63 TCN, ông nổi tính hiếu kỳ, đi cùng tùy tùng tới Đền thờ Jerusalem, vào thẳng Nơi Cực thánh mà chỉ có Thượng tế mỗi năm mới được vào một lần. Pompey không thấy gì hết ngoài căn phòng tối thui và trống rỗng với bốn bức vách trơn. Tuy sau đó ông cho phép các tư tế tẩy uế nhưng đối với người Do Thái, đó là sự sỉ nhục cực độ, và từ đó, tên của Pompey đi liền với sự báng bổ cực kỳ.

            Dưới thời cai trị của Tổng trấn La Mã Gessius Florus, năm 66 SCN, người Hi Lạp cử hành lễ cúng tế tà giáo trên lối vào của một hội đường khiến một số người Do Thái phản đối rồi bị bắt giữ. Tiếp đến, Florus đột nhập Đền thờ Jerusalem lấy đi một số tiền rất lớn. Tới khi người Do Thái phản đối, ông cho lính tàn sát, làm số người tử nạn lên tới khoảng 3.600 người. Từ đó, bùng lên cuộc khởi nghĩa toàn quốc của người Do Thái.

            Cuộc khởi nghĩa kéo dài bốn năm. Tới năm 70 SCN, 25.000 nghĩa quân phòng thủ Jerusalem thất trận. Đền thờ thứ ba do Đại đế Herod xây lên bị đốt cháy và san bằng. Toàn kinh thành cũng bị san bằng “không một hòn đá nào còn nằm trên hòn đá nào”. Kết thúc là cái chết bi tráng của 960 đàn ông đàn bà và trẻ em tự sát ở pháo đài Masada, năm 73 SCN, sau mấy năm tử thủ.

Cuộc lưu lạc của người Do Thái

            Trong hơn 2.700 năm, dân Do Thái có nhiều cuộc lưu vong và tản mác. Có thể liệt kê tuần tự như sau:

            1. cuỘc lưu đày

            Đây là lần tản mác thứ nhất, mang tính lưu vong, sau cuộc thất thủ của vương quốc Israel, đưa tới sự thất tán của mười bộ tộc phương bắc. Kế đó là vương quốc Judah phương nam bị xóa sổ, dân chúng thuộc hai bộ tộc còn lại cùng một ít tư tế thuộc dòng dõi Levi, bị lưu đày sang Babylon, và họ cùng hậu duệ làm thành dân Do Thái cho tới ngày nay. Mười bộ lạc thất lạc để lại nhiều sắc dân sống rải rác ở châu Phi, Ấn Độ và Bắc Trung Hoa; tuy có nơi tự nhận là hậu duệ Do Thái nhưng đã đánh mất bản sắc Do Thái giáo. Sau đó, ngoài hơn 40.000 người Judah từ Babylonia hồi hương năm 539 TCN và tái thiết Jerusalem, còn có một bộ phận lưu dân ở lại Babylon, và thêm nhiều lưu dân ở Ba Tư, tức Iran ngày nay, mà ta đọc thấy trong Esther, một sách của Kinh thánh.

            2. Vùng tản mác

            Thời lệ thuộc Ai Cập, Syria rồi La Mã vào các thế kỷ trước và sau Công nguyên, rất đông người Do Thái di dân và sống tản mác tại các thành phố mang màu sắc văn hóa Hi-La quanh bờ Địa trung hải. Các cộng đoàn đông đảo nhất của họ ở Alexandria, Corinth, Ephesus, Antioch, Thessaloniki, Damascus, Philippi, Cyprus, Cyrene, v.v. Những nơi sống đông dân Do Thái nhất là Babylon và Syria, cách riêng tại Antioch và Damascus, với khoảng từ 10.000 tới 18.000 người Do Thái bị tàn sát sau cuộc nổi loạn ở Jerusalem. Tại Ai Cập có khoảng một triệu người Do Thái. Tại thành phố hải cảng Alexandria, họ chiếm một phần tám dân số

            Thuở đó, số người Do Thái sống tản mác ở hải ngoại còn đông hơn ở chính quốc. Hằng năm, vào các dịp hành hương cố quốc, đặc biệt vào dịp lễ Ngũ tuần, lễ Vượt qua, Thành thánh và Đền thánh Jerusalem tấp nập người Do Thái tứ xứ kéo về, nói cả chục thứ ngôn ngữ khác nhau. Họ là nguồn tài chính lớn nhất của Jerusalem vì họ rất hào phóng khi tế lễ, cúng dường; hằng năm mỗi người nam Do Thái dù đang ở xứ sở nào, cũng phải đóng cho Đền thờ một nửa đồng sekel bạc (nặng khoảng hơn một gram). Theo Phúc âm Luca, một người có tên Simon Cyrene, từ quê tới, đã bị lính La Mã bắt vác cây xà ngang thập tự cho Đức Giêsu Kitô; xét theo lối gọi tên, hẳn người đó là kiều bào ở xứ Cyrene về hành hương Jerusalem.

            Tại Alexandria, vào khoảng thế kỷ 2-3 TCN, 72 học giả Do Thái đã hoàn thành cuốn Kinh thánh bằng tiếng Hi Lạp, gọi là bản Bảy mươi (Septuagint). Về sau, trong triết học, nổi bật khuôn mặt của triết gia Philo (20-50 SCN).

            3. Tản mác suỐt hai ngàn năm

            Đây là cuộc tản mác lớn nhất, đi khắp thế giới và bi tráng nhất. Không kể số người sống ở ngoài Palestine, khi Jerusalem bị san bằng, theo sử gia Flavius Josephus (37-k.100 SCN), họ có khoảng 1.100.000 người trong đó có 97.000 người bị bán làm nô lệ. Cho đến nay, người Do Thái trên khắp thế giới có khoảng 16 triệu người, sống tại hơn 50 quốc gia, trong đó Israel chiếm khoảng hơn 6 triệu người. Thật không dễ trong chốc lát trình bày đầy đủ mọi góc cạnh cuộc tản mác của cả một dân tộc, kéo dài suốt 2.000 năm lịch sử, được gọi là thời Talmud này, nhưng chúng tôi cố gắng đưa ra một số nét chính. Nói chung, đây là 2.000 năm bị trục xuất khỏi quê hương, lúc ấy có tên là xứ Judea, và lang thang vô tổ quốc trên khắp thế giới. Thế nên, kinh Torah, lề luật được triển khai thêm trong sách Talmud, phong tục tập quán cùng ký ức dân tộc trong văn học dân gian trở thành phương cách quan trọng để lưu giữ bản sắc Do Thái của mình.

Sách Talmud Palestine

            Đền thánh Jerusalem bị người La Mã san bằng, kéo theo sự sụp đổ của giới tư tế Saduccee và biến tu viện Qu'ram của người Essene thành nơi hoang phế, nhưng đặc biệt, biến cố ấy làm nổi bật vai trò của hội đường và người Pharisee trong sinh mệnh của Do Thái giáo từ thuở đó cho tới ngày nay. Thoạt đầu, tại Jerusalem và Judea phương nam, người Do Thái bị cấm rao giảng và thực hành phụng vụ, đặc biệt không được giữ ngày Sabbath. Trung tâm tín ngưỡng từ Jerusalem chuyển lên Galilee phương bắc. Tại đây, uy tín của các thầy cả, các nhà thông thái tăng cao, trở nên tâm linh hơn, bác học hơn, họ thật sự là những nhà lãnh đạo tinh thần và cũng là đối tượng cho dân tộc ngưỡng vọng.

            Kinh Torah suốt ngàn năm qua được giảng dạy với những bài bình giải, những ý kiến và các thí dụ minh hoạ truyền khẩu. Do đó, công việc trước mắt, trong thời buổi xiêu lạc này, là phải ghi những thuyết giảng đó thành văn. Thành quả sưu tập những gì liên quan tới các đề mục vừa kể, đặt nặng phần bình giải lề luật, làm thành bộ phận Mishnah. Tiếp đến là những minh họa, dụ ngôn, chuyện kể, v.v. làm thành bộ phận Gemara. Cả hai bộ phận đó hợp lại thành sách Talmud Jerusalem, hay đúng hơn, sách Talmud Palestine, xuất hiện vào khoảng năm 200 SCN. Bên cạnh đó, còn phần văn học dân gian được gom chung với cái tên midrash, trong đó có những mẩu chuyện, lời bàn luận, nhằm triển khai hay bổ sung những chỗ chưa được nói rõ hay triển khai trong kinh Torah.

Sách Talmud Babylonia

            Cuộc khởi nghĩa của Bar Kokba (132-135) thất bại đưa tới thiệt hại nghiêm trọng khôn lường cho người Do Thái ở Palestine. Cùng bị xử tử với thủ lãnh Bar Kokba là nhiều nhà thông thái, trong đó có Đại thầy cả Akiba ben Yosef (Rabbi Akiva), người được xem là kẻ đứng đầu các nhà thông thái và có công đầu trong việc sắp xếp để tập đại thành bản sách Talmud Palestine.

            Khoảng nửa triệu người Do Thái bị giết. Dân số người Do Thái ở Judea giảm hẳn. Người Do Thái bị trục xuất khỏi quê cha đất tổ, bị bắt đem bán làm nô lệ khắp đế quốc La Mã. Jerusalem bị đổi tên thành Aetolia Capiotina, một thành phố hoàn toàn ngoại đạo và là thuộc địa trực tiếp của La Mã. Và chỉ có người Kitô giáo còn lai vãng, người Do Thái giáo nào héo lánh tới mà bị bắt được, sẽ chịu xử tử.

            Một số học giả Do Thái chạy sang Babylon, cùng làm việc với các học giả ở đó trong thời buổi đồng bào họ càng ngày càng sống tản mác và chịu áp lực mỗi lúc một mạnh thêm của Kitô giáo trong vùng đất Đế quốc La Mã. Sang thế kỷ thứ 5 SCN, bộ sách Talmud Babylonia ra đời với hơn 2 triệu chữ, trở thành sách kinh điển, được ưa chuộng và thông dụng hơn bản Talmud Palestine. Nó cũng gồm hai phần: MishnahGemara, bên cạnh đó là phần văn học dân gian midrash.

            Bản Talmud Babylonia mang tính cách văn học tổng thể gồm các bình giải về luật lệ, thần học, khoa học, văn học dân gian và các ngành tri thức khác. Chính nó, trong bàn tay các thầy cả và luân lưu trong các cộng đoàn Do Thái, cùng với kinh Torah nơi hội đường, là chủ lực duy trì Do Thái giáo và là nguyên tắc hướng dẫn người Do Thái để sống, phương tiện để họ vững tin, chi phối sự hiệp nhất, tính cố kết và đàn hồi suốt 15 thế kỷ trước mặt.

Hồi giáo và Giáo hoàng La Mã

            Được truyền bá từ những thập niên đầu của thế kỷ 7, đạo Islam (Hồi giáo) độc thần hàm chứa những yếu tố tương tự với Do Thái giáo như cuộc Sáng thế, các tổ phụ từ Abraham (Ibrahim) tới David (Dâwid), Solomon (Suleyman), Satan (Shaytân), v.v. và các luật về cắt bì, chay tịnh, cầu nguyện, hành hương, v.v.

            Ban đầu, Ngôn sứ Muhammad (k.570-632) chủ trương thu phục người Do Thái, nhưng sau khi bị họ từ khước, ông muốn xúc tiến việc tiêu diệt và đuổi họ ra khỏi Ai Cập. Tuy thế những thủ lãnh Hồi giáo tại các nước Hồi giáo là Sultan (vua Hồi) hay Caliph kế thừa ông, xem đòi hỏi ấy của Muhammad chỉ còn có tính danh nghĩa; họ đặt người Do Thái làm công dân loại hai và tận dụng khả năng ngôn ngữ, tài chánh cùng y thuật của những người lưu vong này.

            Tại các thành thị Hồi giáo, người Do Thái giáo sống trong những khu phố biệt lập nhưng không bị cô lập, kể cả tại Morocco dù có tường cao vây quanh. Ngay cả khi người Hồi giáo xâm chiếm châu Âu vào thế kỷ 7, cai trị xứ Tây Ban Nha, tình trạng của người Do Thái ở đó cũng được cải thiện hẳn.

            Dưới sự cai trị của người Hồi giáo tại Tây Ban Nha, kéo dài cho tới thế kỷ 11, người Do Thái có được một Thời đại Hoàng kim (Golden Age) của văn hóa Do Thái tại các xứ như Tây Ban Nha, Morocco và các nước khác ở Trung Đông. Người Do Thái giáo, người Kitô giáo và người Hồi giáo sống bình đẳng với nhau. Các học giả Do Thái và A Rập chia sẻ tình yêu toán học, y dược, văn chương, triết học Aristotle. Thời kỳ này kết tinh thành các nhà đại tư tưởng như Judah Halevi (k.1075-1141), Shlomo ben Yitschak (1040-1105), Moses Maimonides (1138-1204), v.v. Mãi tới thời hiện đại, người Do Thái mới tìm lại được không khí này.

            Giáo hoàng La Mã tuy không lên án các chính sách bách hại người Do Thái nhưng ban đầu, tương đối có thái độ khoan nhượng với họ, dung chứa họ, không dùng vũ lực với họ. Khi chạy trốn các cuộc thảm sát, họ thường tìm về nước Ý, và dĩ nhiên ở đó họ cũng bị giới cai trị thế tục phân biệt đối xử. Giáo hoàng cũng tìm đủ phương sách bất bạo động nhằm ngăn chận ảnh hưởng của Do Thái giáo lên những vùng dân cư hoặc lên tư tưởng Kitô giáo, dứt phép thông công những ai có quan hệ với Do Thái giáo, cấm người Do Thái giảng dạy, tịch thu kinh sách và thúc đẩy họ cải giáo, v.v. Tuy thế, tại Rome, người Do Thái không bị tàn sát hoặc trục xuất. Và hiện thời vẫn còn cộng đồng Do Thái liên tục sinh hoạt suốt 2.000 năm nay.

Tại các nước châu Âu

            Khởi thủy, người Do Thái có mặt khắp các thành phố lớn của Đế quốc La Mã. Tới đầu thế kỷ 4, người Do Thái đã có mặt ở Tây Ban Nha và sau đó là các vùng đất sông Rhine. Tại các nước châu Âu có người Do Thái sinh sống, chữ dùng chính xác cho chính sách đương thời của nhà cầm quyền đối với họ là bách hại, nghĩa là nếu cần thì tàn sát. Trong bối cảnh văn hóa thời đó, người Kitô giáo nói chung xem Do Thái là một dân tộc bị nguyền rủa vì tội giết Đức Giêsu Kitô, xếp họ vào loại người đáng nghi ngờ, và đồng thời duy trì nhiều thành kiến xấu về họ, thí dụ cho rằng vào dịp lễ Vượt qua, người Do Thái thường làm bánh không men bằng máu của người Kitô giáo và Hồi giáo, v.v. 

            Trong chỉ dụ của các hoàng đế Kitô giáo đầu tiên, hình ảnh của Do Thái giáo bị thay đổi, từ một tôn giáo đáng lưu ý và rõ ràng hợp pháp, thành một giáo phái bất chính và có những cuộc tụ tập báng bổ cùng thực hành pháp thuật. Nhà cầm quyền ngoài việc kềm giữ cho người Do Thái ở vị trí thấp kém, thua cả công dân loại hai, còn tìm cách ngăn chận sự xâm nhập của Do Thái giáo bằng chủ trương không cho mọi tín đồ của nó tham gia chính quyền, cô lập các quan hệ xã hội của họ. Vào thế kỷ 5, Hoàng đế La Mã Theodosius ra chiếu chỉ cấm người Do Thái không được làm chủ nô lệ, không được xây hội đường, không được làm viên chức và không được kết hôn với người không phải Do Thái. Giai đoạn ngược đãi trầm trọng này chấm dứt năm 681 khi các đạo binh Hồi giáo có mặt ở châu Âu.

            Sau Thời đại Hoàng kim (kéo dài từ thế kỷ 8 tới thế kỷ 11, như đã nói ở một đoạn trên), tới giai đoạn châu Âu thành Kitô giáo và A Rập thành Hồi giáo, lúc đó, người Do Thái không chỉ bị xem là “người ngoại cuộc” mà còn là “người ngoại cuộc theo một tôn giáo khác”. Số phận của họ biến đổi tùy theo thái độ của các vua chúa, vốn nắm sinh mạng của thần dân trong tay. Liên tục trong nhiều thế kỷ, người Do Thái không có sức mạnh chính trị, kinh tế tôn giáo nào, và phải sống bằng tính tháo vát cùng tư duy nhạy bén của cá nhân và cộng đoàn mình.

            Sang tới thời Trung Cổ với các cuộc Thập tự viễn chinh của người Kitô giáo nhằm đánh chiếm Jerusalem, trong khi người Do Thái ở quê nhà tiếp tay với người Saracen để phòng thủ Palestine thì người Do Thái ở châu Âu bị tàn sát để tạo khí thế xuất quân hay báo thù rửa hận. Năm 1290, Anh trục xuất 16 ngàn người Do Thái. Năm 1306, Pháp, trục xuất mười vạn người. Đặc biệt tới cuối thế kỷ 15, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trục xuất khoảng 20 vạn người.

            Đối tượng của các vụ trục xuất đó thường là tín đồ Do Thái giáo không chịu cải sang Kitô giáo. Tại Bồ Đào Nha kể từ năm 1497, trẻ em Do Thái bị buộc phải ở lại khiến nhiều bậc cha mẹ cũng phải cải giáo để được sống với con. Nhiều nơi, trẻ em Do Thái bị bắt cóc để chịu phép rửa tội làm người Kitô giáo. Đợt bách hại này nằm trong chiến dịch khủng bố của Toà án Dị giáo vốn bắt đầu tung hoành từ năm 1478, có nơi xem một số người Do Thái là phù thủy, pháp sư. Tại Đức cũng có bách hại nhưng ít hơn.

            Giã từ các nước Tây Âu, người Do Thái một số chạy về phương Đông, một số chạy sang Ý và nhất là chạy tới Đông Âu, đặc biệt Ba Lan. Một số chạy sang lập các cộng đồng ở Pháp vì dưới thời Napoléon tình hình khá hơn. Thực tế, khi người Do Thái bị Tây Ban Nha và Bồ đào Nha trục xuất suốt năm năm, từ 1492 tới 1496, trong số các nước châu Âu chỉ có Hà Lan mở cửa đón nhận và cấp cho họ đầy đủ quyền công dân. Quốc gia này có một mạng lưới thương mại lớn rộng với nhiều tàu buôn và thủy thủ đi khắp thế giới. Một số người Do Thái cũng trở thành thương gia, một số làm các ngành nghề mới phát minh như thợ khóa, kính đeo mắt, ống nhòm, v.v.

            Ngoài Hà Lan, còn có các cộng đồng Do Thái mới thành lập ở Anh, Đức và vùng Moravia, nơi có cộng đồng Do Thái vốn đông đúc sẵn ở Nga, và Ukraine, Lithuania, Hungary, Nam Tư, Tiệp Khắc, Roumania, v.v. Chỉ riêng tại Ba Lan năm 1764, dân Do Thái lên tới con số 750.000 người, đủ để khởi động Phong trào Hasid của Đại tôn sư Baal Shem Tov (1698-1760) rồi lan khắp Đông Âu. Tại Nga vào giữa thế kỷ 19, số người Do Thái lên tới 2 triệu.

            Suốt nhiều thế kỷ, nhiều xứ sở không cho người Do Thái làm chủ đất đai hoặc có ruộng nương, vì họ bị xem là “người ngoại cuộc”. Họ cũng bị cấm vào đại học, vì vậy phải tìm đủ mọi cách để kiếm sống. Một số trở thành thợ may, thợ đóng giày, thợ kim hoàn, v.v. Triết gia Spinoza sống bằng nghề mài tròng kính. Người không làm thợ thì đi buôn và trở thành thương gia. Các ngành nghề nói chung đều lưu động. Một số làm chủ tiệm trong khi những người khác làm lái buôn, mang hàng hóa và tiền bạc đi từ thành phố này sang thành phố khác, và chỉ biết trông cậy vào trí khôn của mình để tự bảo vệ.

            Do đó không lấy làm lạ khi thấy người Do Thái có mặt rất sớm trong các phong trào di dân sang châu Mỹ, từ năm 1654 để tránh Tòa án Dị giáo ở Bồ Đào Nha. Cả trước lẫn sau, di dân Do Thái chia thành năm đợt. Đợt đầu tiên tới New York, thành phố bấy giờ là thuộc địa của Hà Lan. Năm 1881, vì Nga ban hành luật chống Do Thái nên từ năm đó tới năm 1928, số người Do Thái ở Nga ồ ạt di dân sang Mỹ lên đến 1.749.000 người. Hiện nay, dân số Do Thái tại Hoa Kỳ khoảng 6 triệu người, và thành phố New York có đông dân Do Thái nhất.

Khu biệt cư ghetto

            Phong trào Phục hưng tại châu Âu khiến người ta nghi ngờ nó chịu ảnh hưởng của Do Thái giáo. Giáo hoàng Paul IV (1476-1555-1559) ra chỉ dụ Cum nimis absuundum năm 1555, thành lập Khu biệt cư ghetto ở La Mã; người Do Thái muốn đi ra ngoài khu biệt cư phải đeo thẻ màu vàng. Kiểu mẫu này lấy từ ghetto Venice mà về sau lan khắp châu Âu và Trung Đông.

            Ghetto nói chung là một khu vực dành cho người Do Thái sống biệt lập với nhau, có vòng rào bao quanh. Ban đêm, khóa mọi cổng. Ban ngày, người Do Thái đi ra bên ngoài phải đeo thẻ màu vàng, nhiều nơi thẻ có hình Ngôi sao David. Trong ghetto, dân chúng cử lên hội đồng quản trị mà các quyết định của hội đồng đều qua tay xét duyệt của thầy cả.

            Ghetto có tòa án gồm thẩm phán là thầy cả và các kỳ mục, hành xử dựa trên luật lệ của Do Thái giáo. Ghetto cũng tự thu thuế để lo cho trường học và trả lương cho thầy cả, các viên chức y tế, giáo dục, cơ sở xã hội, v.v. và nếu cần, cho các chức việc hội đường như ông từ và người xướng kinh, người giết mỗ súc vật đúng luật kosher. Ghetto còn cử người giao tiếp với chính quyền địa phương. Tuy vậy, dân chúng sống trong ghetto thường nghèo túng vì bị hạn chế việc đi lại, mua bán, sinh kế, v.v.

            Ghetto sở dĩ ra đời vì người Do Thái bị xem là người ngoại cuộc và đáng ngờ, trong các xứ sở Kitô giáo hay Hồi giáo. Các cổng của ghetto khép chặt vào những đợt có đụng độ sắc tộc hay khủng bố người Do Thái, xảy ra bắt cóc trẻ con Do Thái hay vào các ngày lễ lớn của Do Thái như lễ Vượt qua, Ngũ tuần, v.v.

Hai con dê và một cuốn sách

            Thuở còn Đền thờ Jerusalem, vào ngày thứ mười của tháng thứ nhất đầu năm âm lịch Do Thái, trong nghi thức ngày Đền tội (Yom Kippur) khi Thượng tế bắt thăm chọn lấy hai con dê, một con tế thầnmột con gánh tội, có lẽ ông không ngờ tới một ngày nào đó, dân Do Thái hậu duệ của ông sẽ bị trong một lúc mang lấy thân phận của cả hai con dê ấy.

            Tiền tài, quyền lực và danh vọng là những giá trị trần thế. Nếu sử dụng khôn ngoan, chúng sẽ là phương tiện hữu hiệu để phục vụ con người. Nếu bị xem là cứu cánh, chúng trở thành phương tiện tuyệt vời để phục vụ tà thần mà tiêu biểu là con bò vàng nghi ngút khói hương dưới chân núi Sinai hơn 3.300 năm trước, một hình ảnh ô uế của ngẫu tượng được người Israel cùng tư tế Aaron, anh ruột của Moses, bái lạy khi chao đảo niềm tin vào chân lý và thiện hảo.

            Vào bất cứ thời nào, cũng có những thủ lãnh giả mạo, mưu đồ vị kỷ nhân danh chính trị hay tôn giáo để phục vụ sự dữ của mình nằm trong cái ác muôn đời. Tiêu biểu hơn cả là những cá nhân hay tập đoàn độc tài chuyên chế thường củng cố quyền lực của họ bằng hai chân, một chân dân túy chủ nghĩa và một chân dân tộc chủ nghĩa hoặc độc tôn tín ngưỡng. Cả hai thứ chủ nghĩa đó tạo ra những cơn si dại đồng bóng của quần chúng, đưa tới hoang tưởng và bài xích mang tính hủy diệt dân tộc khác hay người theo tôn giáo khác.

            Người Do Thái là một sắc dân tha hương, với lối sinh hoạt tôn giáo nghiêm ngặt và lối sống cá biệt cộng thêm sức sống của những cá nhân có dân tộc nhưng mất chính quyền và lãnh thổ. Vì vậy, khi là thiểu số trong cộng đồng của một dân tộc khác, họ dễ bị các thủ lãnh giả mạo của tôn giáo hay chính trị bản địa dùng làm con dê cúng tế thần linh ngẫu tượng của cơ chế. Và đồng thời dùng họ làm con dê gánh tội để đổ lên mình nó những bất lực và hư hoại của giai tầng lãnh đạo, nhằm xoa dịu quần chúng.

            Những cuộc bách hại người Do Thái không chỉ xuất hiện trong bối cảnh cổ đại và trung cổ mà ngay trong thời hiện đại. Năm 1903, tại Nga xuất hiện cuốn The Protocols of the (Learned) Elders of Zion, nói về những âm mưu nham hiểm của các Trưởng lão Do Thái nhằm khống chế thế giới. Tuy cuốn sách được phóng tác từ chất liệu ăn cắp của các tác phẩm trào phúng chính trị trước đó, nhưng chẳng may có nhiều người tin rằng các âm mưu ghê tởm ấy là có thật.

            Sau đó cuốn sách được dịch sang tiếng Anh, và đặc biệt tiếng Đức. Rồi nó rơi vào tay Đảng Quốc xã Đức trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng đầu thập niên 30 của thế kỷ 20. Lập tức, qua bàn tay xảo quyệt của những kẻ tà đạo, cuốn sách trở thành chứng cớ để phát động một phong trào bài Do Thái, đặc biệt nhắm vào những đối tượng đang hoạt động trong lãnh vực tài chánh và thương mại, và giới trưởng lão học giả ở châu Âu.

            Dĩ nhiên, những khổ nạn tàn mạt của người Do Thái vào nửa đầu thế kỷ 20 không chỉ do bởi một cuốn sách, nhưng The Protocols of (Learned) Elders of Zion cho thấy ảnh hưởng sách báo độc hại của những cây bút bất lương, sự dễ tin của quần chúng và lòng dạ hiểm độc của những thủ lãnh giả mạo, nghĩa là cho thấy sức mạnh của cái ác, của quỉ dữ cùng những hình thái biến dị của nó. Và hiện nay, trên khắp thế giới, vẫn có vô số sách báo, nhiều trang web thuộc loại hư ngụy và độc dữ như thế, chống lại những nỗ lực của con người trong công cuộc hiệp nhất loài người, vượt lên trên những dị biệt tôn giáo, chủng tộc và dân tộc.

Holocaust 1939-1945

            Holocaust phát xuất từ một từ ngữ Hebrew là Shoah, nghĩa là thảm họa mang tính chất hủy diệt. Nói chung, nó được dùng cách riêng để chỉ cuộc Đại tàn sát người Do Thái vào nửa đầu thập niên 40 của thế kỷ vừa qua tại châu Âu. Cho đến nay, rõ ràng chánh phạm là Adolf Hitler với guồng máy Nazi Đức Quốc xã, những kẻ xem Holocaust là “Giải pháp sau cùng cho vấn đề Do Thái.” Tuy thế, nhiều học giả đề nghị mở rộng đối tượng của Holocaust vì trong tổng số 11 triệu nạn nhân của nó, người Do Thái chiếm khoảng 5.9T, số còn lại là các tù binh Liên Sô (2-3T), các sắc tộc thiểu số Ba Lan 1.8T, cộng với người các nước khác, kể cả người Đức thuộc diện tàn tật, đồng tính, tín đồ Nhân chứng Jehovah và các thành phần đối lập chính trị,

            Nạn nhân chủ yếu là người Do Thái, với một âm mưu có hệ thống và thực hiện có kế hoạch của Đức Quốc xã nhằm diệt chủng Do Thái sau khi đã biến họ vừa làm nguyên cớ biện minh vừa làm con dê gánh tội cho những sai lầm trong các sách lược xã hội, kinh tế và nhất là quân sự của Adolf Hitler và tập đoàn. Nó đi đúng với sách vở chính trị học rằng trong khi các thủ lãnh dân chủ cần phải nêu cao lý tưởng nhân bản để phục vụ thì trái lại, các nhà cai trị độc tài thường tìm cách vẽ vời cho ra kẻ thù để có lý do sách nhiễu.

            Từ giữa thập niên 1930, âm mưu diệt chủng Do Thái ấy được tiến hành theo hai giai đoạn: lập cơ sở pháp chế bằng những đạo luật tách người Do Thái ra khỏi xã hội dân sự, và tiếp đó, đưa họ vào cái chết bằng nhiều hình thức, trong đó kinh khiếp nhất là các trại tập trung có phòng hơi ngạt và lò thiêu.

            Địa bàn tàn phá của Holocaust không chỉ ở nước Đức mà còn tại các xứ sở bị quân Đức chiếm đóng như Ba Lan, Hà Lan, Luxembourg, Bỉ, Pháp, Nam Tư, Hungary, Roumania, Bulgary, Phần Lan. Hãy lấy Ba Lan làm hình ảnh tiêu biểu. Trước hết, Đức Quốc xã lập ghetto ở thủ đô Warsaw, cô lập khoảng 380.000 người Do Thái Ba Lan, sau đó di chuyển họ đi nơi khác. Tại những xứ sở khác, ban đầu người Do Thái ra đường phải mang huy hiệu có hình Ngôi sao David, kế đó, bị phân rẽ gia đình theo phái tính nam-nữ, và bị vận chuyển xuyên quốc gia bằng phương tiện cơ giới, thường là các toa xe lửa chở súc vật, để tới các trại tập trung. Và vào những tháng đầu năm 1945, khi Hồng quân Nga băng qua Ba Lan để càng ngày càng tiến gần tới mục tiêu Bá Linh thì tốc độ tàn sát tù nhân của Đức Quốc xã càng lúc càng nhanh khủng khiếp.

            Ngày nay, người ta dễ tìm thấy tài liệu về các khổ nạn tại hơn 15 trại tập trung của Đức Quốc xã cùng những hồi ký về cuộc sống lẫn trốn bên ngoài nó như của Anne Frank, chờ chết bên trong nó như của Elie Wiesel và vô số tác giả khác. Chỉ xin nêu ra ở đây một ít con số. Tổng số người chết: 11T. Số người Do Thái 5.9 T (Ghi nhận cụ thể và chưa đầy đủ: chết trong các ghetto và nhà tù 800.000 người; bị các đội hành quyết bắn ngoài trời 1.400.000 người; trong các trại tập trung 2.900.000). Tổng số người chết trong ba trại có số lượng cao nhất là Auschwitz 1.400.000 người; Belzec 600.000 người; và Chemno 600.000 người.

            Liệu loại tội ác diệt chủng như thế có thể tái diễn dưới hình thức khác không? Không biết. Vì bao lâu con người chưa tích cực pháp chế hóa các giá trị đạo đức, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho cái thiện phát huy cao độ để chế ngự cái ác trong mỗi người và chủ động con đường đi lên của dân tộc, thì vẫn chưa biết điều gì sẽ xảy tới cho mình và cho cộng đoàn, cho dân tộc và cho loài người.

Con đường phục quốc của người Do Thái

            Những khổ nạn của người Do Thái vừa được đề cập sơ lược ở trên không còn là vấn đề tranh luận. Các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả và các sử gia cùng hồi ký của các nhà văn và tiếng nói của những nạn nhân sống sót đã làm chúng ngày càng hiện nguyên hình với đầy đủ vẻ kinh tởm và tàn độc ngoài sức tưởng tượng. Ngày nay, cái tên Đảng Tân Quốc xã (Neo-Nazi) và những lời phủ nhận Holocaust trở thành ngọn roi quất vào lương tâm loài người và là sự sỉ nhục con người ở mức độ cao nhất.

            Thảm trạng của Holocaust cũng âm vang trong tiếng nói đầy ân hận sâu xa của Giáo hội Công giáo La Mã. Ngày 16 tháng Ba năm 1998, Giáo hoàng Gioan-Phaolô II nhân danh toàn thể cộng đồng Công giáo La Mã đưa ra lời xin lỗi vì trong Thế chiến Hai, Giáo hội đã không phát biểu công khai chống lại cuộc Đại tàn sát Holocaust của Đức Quốc xã. Trong văn kiện xin lỗi đó, Giáo hoàng còn nói Holocaust vẫn mãi mãi là vết nhơ nhuốc không tẩy xóa được trong thế kỷ 20. Hai năm sau, ngày 12 tháng Ba năm 2000, cũng chính Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã đưa ra lời xin lỗi rộng rãi về những tội lỗi mà Giáo hội Công giáo đã phạm suốt các thời đại trong đó có những hành động chống lại người Do Thái.

            Trước đó 140 năm, đã có những tiếng nói vận động phục quốc và phác họa hình ảnh một nước Israel. Năm 1862. Moses Hess (1812-1875), một người cộng sự với Karl Marx (mà thân phụ, Henrich Marx, là một luật sư Do Thái cải giáo sang Tin Lành), viết cuốn Rome and Jerusalem, The Last National Question (La Mã và Jerusalem, vấn đề cuối cùng mang tính dân tộc) nhằm kêu gọi người Do Thái thành lập một nước xã hội chủ nghĩa lại Palestine như một phương cách giải quyết vấn đề Do Thái. Năm 1882, sau những đợt đụng độ đẫm máu giữa thủy thủ Hi Lạp và thanh thiếu niên Do Thái tại hải cảng Odessa (Ukraine), Bác sĩ Judah Leib Pinsker (1821-1891) đã viết trong một tờ kêu gọi ủng hộ công cuộc phục quốc, trong đó ông phân tích khuynh hướng của người châu Âu xem người Do Thái là người lạ, và ông cay đắng nhận xét rằng:

            “Vì người Do Thái không có nơi đâu là nhà, không có nơi đâu là quê mẹ, nên ở khắp nơi hắn vẫn là người lạ. Tới độ bản thân hắn và tổ tiên hắn dù được sinh ra trong một đất nước cũng chẳng mảy may biến đổi được thực tế đó...[.] đối với sự sống, người Do Thái là xác chết, đối với nơi chôn nhau cắt rốn hắn là người nước ngoài, đối với quê nhà cố định hắn là kẻ rày đây mai đó, đối với quyền sở hữu hắn là gã ăn xin, đối với người nghèo hắn là kẻ bóc lột và tên triệu phú, đối với người yêu nước hắn là kẻ vô tổ quốc, và đối với tất cả, hắn là kẻ kình địch bị căm ghét.”

            Từ năm 1882, người Do Thái đã bắt đầu háo hức di cư về Palestine, trong đó có 45.000 người hồi hương từ Nga. Họ thành lập một số địa điểm định cư canh tác nông nghiệp với sự trợ giúp tài chính của những người hảo tâm ở Tây Âu. Sang tới thập niên 1890, Theodor Herzl (1860-1904), một ký giả Áo-Hung vận động mạnh mẽ cho việc phục quốc và là cha đẻ của phong trào chính trị phục quốc Do Thái hiện đại (Zionism). Đệ nhất Nghị hội Phục quốc (First Zionist Congress) họp tại Basel, Thụy Sĩ năm 1897 đã thành lập Tổ chức Phục quốc Thế giới (World Zionist Organization).

            Thế nhưng thời đó, không phải mọi người Do Thái đều đồng ý với giải pháp Phục quốc Do Thái. Một số người Do Thái Chính thống đánh giá nỗ lực của Phong trào Zion là hấp tấp nông nổi, như một hành động vi phạm lề luật của Thượng đế. Nhiều người Do Thái Cải cách chống đối Phong trào Zion, xem nó là hành động đi ngược lại trào lưu lịch sử trong một thế giới đang hướng tới hoà bình và tình huynh đệ. Một số người cho rằng phong trào mang tính dân tộc chủ nghĩa ấy đối nghịch với khái niệm cho rằng Do Thái giáo chỉ là một tôn giáo.

            Thế rồi vụ Holocaust xảy ra; tự thân nó giải quyết mọi tranh luận và hoá giải các quan điểm đối nghịch. Hai ngàn năm trôi dạt với cao điểm là cuộc Đại tàn sát Holocaust, dân tộc tự hào mình được Thượng đế chọn và có sự hiệp thông riêng tư với Thượng đế đó, cuối cùng thấy mình là đoàn người tả tơi sống sót trước sân lò sát sinh của đủ loại đồ tể. Chọn lựa tốt nhất là xây dựng cho mình một quê hương, để vừa có đất sống, vừa có chỗ hướng về và biến thành hiện thực câu chúc nhau hằng năm trong bữa ăn seder mừng lễ Vượt qua: Sang năm ta về Jerusalem!

            Sau bao nhiêu gian nan, nước Israel được thành lập vào ngày 14 tháng Năm 1948, trên vùng đất Palestine (xứ Judea và xứ Galilee cũ) với diện tích 20 ngàn cây số vuông (bằng 1/16 diện tích nước Việt Nam). Dân số tính tới tháng Năm năm 2010 là 7.602.400 người, trong đó người Do Thái chiếm 6.051.000 người. Số còn lại gồm người Hồi giáo, Kitô giáo, Samaria và Druze. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hebrew, và lịch sử kinh thánh được dạy cho trẻ em như là câu chuyện trường thiên của dân tộc.

Ai là người Do Thái?

            Đó là một câu hỏi chua xót và rất khó trả lời cho một dân tộc sống chung với hàng chục dân tộc khác suốt hai ngàn năm nay. Với hơn 10 triệu người Do Thái đang sống bên ngoài lãnh thổ Israel, cuộc sống chung đó có vẻ kéo dài tới vô tận vì con người thời nay ngày càng mang tính hoàn cầu. Ngày nay, câu hỏi thực tế nhất là người Do Thái ấy xuất thân từ cộng đồng nước nào. Người Do Thái hôm nay không còn thuần chủng. Hậu quả chung đụng qua cả trăm thế hệ khiến cho người Do Thái nói chung, có kiểu nhân dạng tương tự với dân chúng bản địa.

            Người Khương ở Hoa Bắc và người gốc Do Thái ở Hồ Nam trông giống với Hán tộc. Người Do Thái ở Ethiopia trông giống với người Ethiopia không phải Do Thái, có màu da đen và một số đặc điểm của người Caucase cùng người vùng Thượng Sahara. Người Do Thái giáo Yemen và người Hồi giáo Yemen chẳng khác gì nhau, đều có nước da sậm màu ô-liu, vóc người nhỏ, đầu hơi dài. Chủng tộc duy nhất mà người Do Thái ít bị đồng hóa là Bắc Âu bản địa. Thí dụ so với ngươi Do Thái Đức, thì người Đức không Do Thái nước da tương đối sáng hơn, mắt xanh, đầu dài và cao hơn. Đó chỉ mới vài thí dụ trong số hàng chục loại người Do Thái sống với các dân tộc bản địa khác.

            Tới đầu thế kỷ 20, người Do Thái sống ở Đông và Tây Âu cùng Nam và Bắc Mỹ được gọi là người Do Thái Ashkenazi. Trước đó, từ sau năm 1492, người Do Thái rời Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tới sống trong thế giới A Rập – trải rộng từ Bắc Phi ra khắp Trung Đông tới Ấn Độ – được gọi là người Do Thái Sephardic. Tuy nhiên, tại nhiều nước ở Trung Đông, gồm có Yemen, Iraq, Iran và Ethiopia, người Do Thái được gọi với tên khác. Tại Iraq và Iran, họ được gọi là người Do Thái Babylon. Người Do Thái ở phương Đông được gọi là Edor HaMizrakh.

            Ngày nay, danh xưng Sepharnic trở thành tiếng chỉ chung những người Do Thái không phải là Ashkenazi. Vì tình trạng đa nguyên của người Do Thái nên họ có các phong tục, truyền thống, tên họ, y phục, thức ăn và văn hóa dân gian (kể cả truyện dân gian) khác nhau trong nhiều khía cạnh. May mắn là những dị biệt văn hóa ấy được vượt qua nhờ các giá trị và các chủ đề mang tính Do Thái giáo nhất định.

            Khi nước Israel thành lập năm 1948, ban đầu có một số người tình nguyện trở về từ Mỹ và Canada. Rồi tới lượt các nạn nhân Holocaust sống sót ở châu Âu. Kế đó, lũ lượt người Do Thái sống tại các nước A Rập; nhiều người rời nơi mình từng sinh sống suốt 2.000 năm nay. Ngày nay, cả hai nền văn hoá của người Do Thái Ashkenazi và người Do Thái Sephanic cùng nhau hình thành bản sắc của nước Israel.

            Và như thế, để giải quyết câu hỏi “Ai là người Do Thái?”, người ta cho rằng người Do Thái bao gồm ba nhóm. Thứ nhất, những người sinh ra trong gia đình Do Thái dù họ theo hoặc không theo Do Thái giáo. Thứ hai, những kẻ có bối cảnh tổ tiên hoặc có dòng dõi Do Thái dù không nghiêm ngặt về mẫu hệ như được qui định theo Lề luật. Thứ ba, những kẻ tuy không có bối cảnh tổ tiên hay dòng họ là Do Thái nhưng đã cải sang Do Thái giáo và nay đang là tín đồ của đạo đó, thí dụ trường hợp trước đây của Đại đế Herod.

Sống với thế giới ngày nay

            Cuộc tiến hóa đang chuyển biến chóng mặt, từ khoa học tới văn hóa. Để chứng minh mình là người Do Thái, một cầu thủ da đen trong đội tuyển Brasil không phải ôm theo chồng gia phả mà chỉ cần rút từ ngực áo ra bản xét nghiệm gen di truyền. Cũng thế, hàm râu rậm rạp không còn được xem như có sức sống nội tâm phong phú và ân sủng dồi dào của Thượng đế. Con người thời nay mang trong mình hai tính cách, vừa hiện đại hóa vừa toàn cầu hóa, và đối với họ, có lẽ như một truyện dân gian trong cuốn này: Lề luật không ở trên trời. Ấy là chưa kể những kẻ nhiệt thành của phong trào hậu hiện đại, chuyên môn tìm cách lột trần hoặc gây nhiễu các đại tự sự, tiểu tự sự của các nền văn hoá và tín ngưỡng, các tổ chức chính trị, v.v.

            Cuộc sống hiệp nhất và hợp thành một thể thống nhất của Do Thái giáo dưới quyền dẫn đạo của thầy cả hầu như đã thất lạc đâu đó trong thời hiện đại. Tự do của con người hôm nay mang lại sự chấp nhận thực trạng dị biệt và đa nguyên chủ nghĩa. Không còn tình trạng hết thảy tín hữu Do Thái giáo cất lên tiếng nói đồng nhất về thẩm quyền ràng buộc của kinh Torah. Tuy tín hữu theo khuynh hướng chính thống vẫn quả quyết rằng ý chí của Thượng đế hiện thể trong kinh Torah và sách Talmud, nhưng giờ đây họ thấy rằng sự hiện thể đó phải được thông giải một cách có thẩm quyền bởi các nhóm thầy cả cá biệt theo từng thế hệ.

            Thế nhưng, một số người Do Thái khác vẫn khẳng định rằng Kinh thánh từ những khởi hứng thiêng liêng của nó, vẫn là lời giải đáp đầy nhân tính cho sự có mặt của một Thượng đế đang chỉ huy mọi biến cố. Cũng có nhiều người Do Thái không xem mình là người tôn giáo, không thuộc về một hội đường nào tuy vẫn tự hào về di sản của dân tộc. Họ ca ngợi các chiều kích luân lý và văn hóa của Do Thái giáo và bày tỏ niềm hi vọng rằng con cháu họ vẫn tự hào về dân tộc Do Thái cùng các giá trị và lịch sử của nó.

Thầy cả thời đại mới

            Còn hơn tình trạng phân rẽ trong giới Pharisee hai ngàn năm trước thành hai trường phái của hai Đại Tôn sư Shammai và Hillel, Do Thái giáo ngày nay mang những khuynh hướng khác nhau trong cả trong vấn đề thông giải kinh sách lẫn thực hành thường nhật. Ta có Do Thái giáo ở Bắc Mỹ thực tiễn và năng động, bên cạnh Do Thái giáo Bắc Âu uyển chuyển và phóng khoáng, nằm kề với Do Thái giáo Đông Âu với Nga vẫn đậm màu bảo thủ và ảnh hưởng lên các cộng đồng di dân của họ ở Mỹ và Canada.

            Tình trạng dị biệt đó sẽ còn kéo dài vì như đã thấy, tín đồ Do Thái giáo không có cơ chế trung ương tập quyền như Công giáo La Mã hay Chính thống giáo. Ta có Do Thái giáo phái Hasid với những sinh hoạt bình dân, rộn ràng nhưng vẫn đượm không khí thần bí. Do Thái giáo Cải cách muốn tái phát biểu đức tin vào thuở bình minh của thời đại ngôn sứ với lời hứa “sự sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc” của con người thời đại. Do Thái giáo Bảo thủ khẳng định rằng biến đổi của sự tuân giữ lễ nghi Do Thái giáo phải tăng trưởng trong quan hệ hữu cơ với trải nghiệm cuộc sống của tín hữu. Các thầy cả của phái bảo thủ này vẫn duy trì chiếc khăn trùm đầu khi cầu nguyện và khẳng định tầm quan trọng của luật chay tịnh. Và họ tự xem là người Do Thái giáo có khuynh hướng chính thống, nhất quyết giữ nghiêm ngặt ngày Sabbath và vẫn phân chia riêng biệt chỗ ngồi của nam và nữ trong hội đường.

            Sự khác biệt của cả ba khuynh hướng đó tiếp tục đưa tới các quan điểm khác biệt về thẩm quyền của thầy cả. Người Chính thốngngười Bảo thủ quả quyết rằng chỉ có hàng ngũ thầy cả được cơ chế hóa mới có thẩm quyền thông giải kinh Torah. Ngược lại người Cải cách cho rằng thầy cả đóng vai trò người hướng dẫn hơn là thẩm quyền tối hậu.

            Thêm nữa, sự lớn mạnh của phong trào nữ quyền trên khắp thế giới cũng tác động sâu xa lên Do Thái giáo. Rất đông nữ tín đồ nhấn mạnh rằng văn bản Kinh thánh cũng như lề luật và các kinh nguyện phụng vụ đã quá chú trọng tới nam giới khiến cho nữ giới hầu như đứng bên lề hoặc chỉ là đối tượng phụ. Tình trạng bất bình đẳng đó phải được chấm dứt trong một thế giới mà nữ giới không còn bị thẩm định giá trị dựa trên khả năng sinh sản hay đảm đang nội trợ như thuở xưa, và nam giới không là kẻ duy nhất bôn ba ngoài xã hội.

            Nhiều phụ nữ Do Thái đòi phải thông giải lại giao ước của Thượng đế dành cho loài người cả nam lẫn nữ, bổ túc cho những luận giải trong Talmud và văn học dân gian midrash, cũng như tìm cách ghi lại các thông điệp trong Kinh thánh một cách phi giới tính, thí dụ tại sao Thượng đế chỉ luôn luôn mang hình ảnh đàn ông và được tiêu biểu bằng đại danh từ giống đực. Trong thực hành cũng thế, có khuynh hướng làm lễ điểm đạo, hay lễ trưởng thành cho thiếu niên 13 tuổi, cả nam lẫn nữ; nhân số mười người hợp qui cách cho một buổi cầu nguyện phải tính luôn cả nam lẫn nữ, các qui định về hôn ước, li thân li dị, quyền gia trưởng, v.v. phải đặt trên sự bình đẳng giới tính.

            Thậm chí một số định chế Do Thái còn tiến hành việc phong thầy cả cho nữ giới. Như Nữ thầy cả Sally Priesand (1946- ), thuộc Đại học Hiệp nhất Do Thái Cải cách (Reform Hebrew Union College), kẻ đầu tiên được tấn phong vào năm 1972 ở Hoa Kỳ.

            Thế nhưng nữ thầy cả đầu tiên là Regina Jonas được tấn phong bí mật vào năm 1935 tại Bá Linh; bà chào đời năm 1902 và tới năm 1944 thì bị giết trong trại tập trung Auschwitz. Trước đó, tại Hoa Kỳ có Paula Ackerman (1893-1989) phục vụ cộng đoàn với năng lực của một thầy cả nhưng bà không bao giờ được phong chức.

            Năm 1985, Chủng viện Thần học Do Thái Bảo thủ tại Hoa Kỳ (Jewish Theological Seminary of America) cũng tấn phong Amy Eilberg (1954- ) làm thầy cả. Tính tới năm 2004, Chủng viện này đã tấn phong hơn 150 nữ thầy cả, còn Học viện Thầy cả Ziegler (Ziegler School of Rabbinic Studies), cũng thuộc khuynh hướng bảo thủ, đã tấn phong khoảng 30 người.

*

*         *

            Từ lời ca của David trong đoạn Thánh vinh mở đầu bài này đến nay đã ba ngàn năm. Qua bao nhiêu gian nan và chuyển biến, người Do Thái vẫn mang trong mình hình ảnh Thượng đế giữa cuộc lữ thứ trần thế. Đấng giao ước ấy, dù được thông giải ra sao theo ngôn ngữ thời nay, vẫn là niềm hy vọng, nỗi cậy trông và bến đỗ cho thuyền đời lạc loài. Và khi con người bí lối hay cô đơn nhất, vẫn có thể cảm thấy nguôi ngoai nếu có một hình bóng bên cạnh hay trên đám mây trước mặt. Cũng thế, ngày nay, tiếng hát có hình bóng ấy hẳn không còn ở ngoài đồng cỏ xanh tươi bên đàn súc vật hay chỉ trong hội đường, mà còn trên sân khấu hay giữa quảng trường, sân vận động, với hàng chục ngàn khán giả đang ngây ngất vươn tay lượn mình và thích thú hòa điệu hát theo.

            Ofra Haza, nữ ca sĩ Do Thái, là người thấm đẫm nguồn cảm hứng thiêng liêng ấy. Cô chào đời năm 1957 tại khu phố Hativak ở Tel Aviv, trong một gia đình nghèo gồm chín anh em. Nhạc và lời do chính cô viết và hát, khởi hứng từ tình yêu văn hóa Israel và niềm tin vào Thượng đế, lan khắp Trung Đông, các xứ A Rập cùng châu Âu và Bắc Mỹ.

            Tiếng hát của Haza cất cao theo thể điệu nhạc pop hiện đại mang lại cho cô nhiều dĩa vàng và dĩa bạch kim cùng nhiều giải thưởng trên khắp thế giới. Năm cô qua đời (2000) vừa khép lại một ngàn năm cũ nhưng tiếng hát của cô vẫn vang lên dạt dào trong thiên niên kỷ mới. Và tôi xin mượn một bài hát của cô như lời nguyện cầu của kẻ cô đơn lạc loài nơi trần thế, để làm lời kết cho bài này:           

trái tim tôi

            Những chiếc cổng trời cao mở ra cho nước mắt tôi

            Những chiếc cổng trời cao mở ra cho nước mắt tôi

            Thượng đế ơi, xin xót thương tôi.

            Thượng đế ơi, xin xót thương tôi

            Và đây cơn nhức buốt trong trái tim tôi

            Và đây cơn nhức buốt trong trái tim tôi    

            Ôi tình yêu, làm sao tôi có được?

            Ôi tình yêu, làm sao tôi có được?

            Người còn biết chăng tôi hiện hữu nơi này?

            Làm sao tôi tìm thấy lối đi xuyên qua

            tình yêu của người?

            Trái tim tôi chỉ khát khao tự do

            Không ai có thể khiến tôi yêu cái khác

            Chỉ khi tình yêu ấy hiểu nỗi khổ đau này

            và tới bên tôi

            Ai nguyên nhân của đau đớn không thể tin này

            Ai kẻ chẳng biết chút nào sự hiện hữu của tôi?

Bảng Niên biểu Lịch sử Do Thái

TRƯỚC CÔNG NGUYÊN

k.2000 - k.1700 Thời đại truyền thuyết của các tổ phụ Abraham,

                                                Isaac và Jacob.

k,1600 - k.1200 Lưu đày tại Ai Cập, truyền thuyết.

k.1200 - k.1047 Thời kỳ Thẩm phán.

k.1047 - k.1010             Saul làm vua đầu tiên

k.1010 - k.1003             David làm vua Judah     

k.2003 - k.970               David làm vua Israel., thống nhất đất nước

k.970 - k.931     Solomon, con trai, nối ngôi

k.960 - k.953     Xây cất Đền thờ Jerusalem I

k.953 - 587        Thời kỳ Đền thờ Jerusalem Thứ nhất.

k. 931               Vương quốc Israel chia đôi

                                                Bắc:  Vương quốc Israel

                                                Nam: Vương quốc Judah.

k.800 - k.587     Thời kỳ các ngôn sứ trong Kinh thánh:

                                                Ngôn sứ Elijah

                                                Ngôn sứ Elisha

                                                Ngôn sứ Isaiah (k.700 TCN.).

                                                Ngôn sứ Jeremiah  và Ezekiel (k.450 TCN.).

722                               Đế quốc Assyria chiếm Vương quốâc Israel:

                                                Mười chi tộc tản mác và thất lạc.

587                               Đế quốc Babylon chiếm Vương quốc Judah:

                                                Bắt đầu cuộc lưu đày 2 chi tộc còn lại sang ở Babylon.

539                               Người Do Thái được phép trở về Jerusalem

519-20              Đền thờ Jerusalem Thứ hai.

539-332                        Đế quốc Ba Tư cai trị Judea, Babylon

                                                và thỉnh thoảng Ai Cập.

457                               Ezra mang kinh Torah tới Jerusalem.

333-323                        Triều đại của Alexander Đại đế.

                                    Hi Lạp chiếm Đế quốc Ba Tư:

                                    Người Do Thái bắt đầu đi sống tha hương.

301- 198                       Judea bị Ai Cập đô hộ - Thời Ptolemy.

k.150 -              Viết các văn bản ở Biển Chết (cho tới k. 40 SCN)

167                               Khởi nghĩa của Nhà Maccabea    

140 - 63                        Judea độc lập dưới thời Hasmonea

k.100                            Người Do Thái sống tản mác (cho tới ngày nay).

k.100                            Một số người Do Thái bắt đầu định cư ở Ý.

k.100                            Hội đường đầu tiên.

63                                 Judea bị La Mã cai trị

                                                (cho tới 630 SCN có gián đoạn một thời gian ngắn)

SAU CÔNG NGUYÊN

k.20                              Vua Herod phá Đền thờ cũ, xây Đền thờ Jerusalem Thứ ba.

k.75 - k.200                   Làm sách Talmud (bộ phận) Mishnah.

70                                 Đền thờ Jerusalem bị người La Mã san bằng.

132 - 135                      Khởi nghĩa của Simon Bar Kokhba

k.200                            Người Do Thái định cư ở Tây Ban Nha.

k 200                            Sách Talmud Palestine (Jerusalem)

k.500 - 600                    Sách Talmud Babylonia

612 -  694                     Bị Tây Ban Nha Kitô giáo ngược đãi đợt I.

681 - 1050                     “Thời đại Hoàng kim” của văn hóa Do Thái

                                                ở Tây Ban Nha

1096 - 1189                   Các đạo quân Kitô giáo tàn sát người Do Thái

                                                trước khi rời châu Âu  để sang Palestine thập tự chinh.

k 1100              Người Do Thái bắt đầu định cư ở Ba Lan

                                                sau đó lan khắp Đông Âu

1290                             Anh trục xuất người Do Thái

1306                            Pháp trục xuất người Do Thái

1391                             Tại Tây Ban Nha, bị tàn sát, buộc phải cải giáo.

1478                             Thiết lập Toà án Đại phán quan ở Tây Ban Nha

1492-1496                     Tây Ban Nha trục xuất người Do Thái

                                    Bồ Đào Nha trục xuất người Do Thái

                                    Người Do Thái chạy qua Hà Lan

                                    Người Do Thái chạy về Trung Đông

1555                             Giáo hoàng Paul IV ra sắc chỉ lập ghetto Do Thái.

1654                             Bắt đầu định cư tại Bắc Mỹ

k. 1760                         Bắt đầu hệ phái Hasid (Hasidism) từ Ba Lan

k.1800 - 1945    Giải phóng các ghetto Do Thái ở Tây và Đông Âu

1881 - 1928                   Ban hành luật chống Do Thái tại Nga

                                    Di dân ồ ạt sang Hoa Kỳ

1904                             Cuốn The Protocols of the (Learned) Elders of Zion

                                                xuất hiện ở Nga

1875                             Đại học Hiệp nhất Do Thái Cải cách

                                                (Reform Hebrew Union College) tại Cincinati (Ohio, HK)

1897                             Nghị hội đầu tiên của Phong trào Phục quốc Zion

1933 - 1945                   Adolf Hitler cai trị nước Đức;

                                    “Giải pháp sau cùng cho vấn đề Do Thái”

                                                dẫn tới tàn sát hàng triệu người Do Thái

                                    Đại tàn sát (Holocaust, 1939-1945)

1945                             Thành lập nước Israel

1945                             Ưu thế của người Do Thái Hoa Kỳ (cho tới nay)

1948                             Thành lập nước Israel ở Palestine

Nguồn: Trích từ Kho tàng truyện dân gian Do Thái, Tập III, Nguyễn Ước biên soạn, sắp xuất bản.

Tác giả: