Nhảy đến nội dung

Ra đời của Chúa Giê-su II

 

 

Ra đời của Chúa Giê-su II

Nguyễn Ước dịch

 

 

(tiếp theo)

Hình Ảnh của hiện hữu Thiên Chúa

      Đây là một mầu nhiệm quá thiêng liêng đến đổi loài người ít dám tin. Có lẽ cách tốt nhất thâm nhập vào chỗ sâu kín của nó là khảo sát những nỗ lực của loài người nhằm giảm thiểu nó. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo,  nhiều người miễn cưỡng chấp nhận điều đó với toàn bộ vẻ uy nghiêm của nó.  Ba lần Giáo Hội đã phải ra công bố long trọng để giữ cho sự nguyên vẹn của mầu nhiệm này không bị sứt mẻ.

      Khuynh hướng giới hạn ý nghĩa sự nhập thể này là gì?

      Có lẽ chúng ta có thể diễn tả khuynh hướng ấy như sau: Dựa theo những ý niệm của chính mình, và cũng dựa theo những hiểu biết cố chấp và cục bộ về Cựu Ước, chúng ta hình thành những định kiến nào đó về Thiên Chúa, về bản tính vô hình, quyền năng và tính chất không đến gần được của ngài. Rồi chúng ta đối chiếu những khái niệm này với Chúa Giê-su và nói ngài không thể là Thiên Chúa.

      Làm như thể chúng ta đã thật sự hiểu Thiên Chúa là ai! Làm như thể những ý niệm tự nhiên trước đó về Thiên Chúa đã là một trình bày thấu đáo của Thiên Chúa! Thực tế, chúng ta chỉ biết Thiên Chúa là ai qua Chúa Giê-su. Không phải qua (ý niệm của chúng ta về) Thiên Chúa mà chúng ta học biết Chúa Giê-su. Nhưng qua Chúa Giê-su mà chúng ta học biết Thiên Chúa. Biểu thị của Chúa Giê-su là một cơ hội nhìn thấy chân chính và duy nhất mạc khải của Thiên Chúa.

      Khoảng năm 300 sau C.N., khuynh hướng mà chúng ta đang nói đến, tự biểu lộ trong học thuyết của A-ri-ô, một linh mục ở A-lê-xan-dri-a.  Ông, chủ yếu nghĩ theo cách loài người, đối chiếu một Thiên Chúa nào đó với sự xuất hiện của Chúa Giê-su và tuyên bố rằng Đức Kitô không phải là Thiên Chúa, dù ngài rõ ràng là một thụ tạo ở một đẳng cấp rất cao. Công đồng vĩ đại đầu tiên của Giáo Hội về vấn dề này được triệu tập vào dịp ấy ở Ni-cê-a (Nikaia) năm 325. Công đồng tuyên bố long trọng rằng trong Chúa Giê-su Thiên Chúa xuất hiện ở thế gian như một con người, con người của Chúa Con.

      Việc tuyên xưng đức tin được vạch ra từ Công đồng Ni-cê-a là Kinh Tin Kính nay vẫn được đọc hoặc hát sau bài phúc âm trong Thánh lễ Misa:"Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật; được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha."  "Được sinh ra, mà không phải tạo thành": đó là sự phát sinh chân chính (sinh ra) trong và bởi Thiên Chúa, mà không phải là một thụ tạo.

      Như thế Chúa Con phát xuất bởi Chúa Cha bằng cách phát sinh, không bằng cách tạo thành.

      Nhưng người ta còn nhiều câu hỏi. Họ còn gặp nhiều khó khăn trong việc làm hoà hợp các khái niệm tự tạo nhiều hoặc ít của mình về Thiên Chúa với sự biểu thị chân chính của Thiên Chúa trong Chúa Giê-su.

      Khoảng năm 400, sự kiện trên đưa tới lý thuyết rằng Con Thiên Chúa trên trời và con người Chúa Giê-su ở mặt đất là hai kẻ thật sự tách biệt nhau. Cả hai được thừa nhận hiệp nhất với nhau, nhưng cả hai vẫn còn tách biệt. Cách thức này được nghĩ là để bảo vệ một khái niệm nào đó về Thiên Chúa trong sự thanh khiết của nó. Lý thuyết này được gắn liền với tên của Giám mục Nes-tô-ri-ô, sống vào thế kỷ thứ năm. Ta có thể nhìn gần hơn quanh ta để thấy dấu vết của sự suy nghĩ này. Nó có thể có trong việc thể hiện các khái niệm của chúng ta về Đức Kitô, đặc biệt giữa những người có khuynh hướng khoa học hoặc bán khoa học. Một đằng chúng ta tin Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, đằng khác khi chúng ta công nhận điều ấy chúng ta cảm thấy có thể để nó qua một bên trong mọi cân nhắc sâu xa hơn về Chúa Giê-su. Chúng ta tiếp tục cân nhắc ngài như một vị tôn sư sống hai ngàn năm trước. Chúng ta nói về ngài như một con người vĩ đại. Chúng ta không thật sự thấy trong sự sống loài người của ngài bản vị Con Thiên Chúa, ánh chói lọi rực rỡ của sự sáng vĩnh cửu.

      Để hoá giải khuynh hướng này, Công đồng Ê-phê-sô công bố vào năm 431 rằng, mặc dầu có sự khác biệt giữa bản tính thiêng liêng và bản tính loài người, nhưng chỉ có một bản vị trong Đức Kitô. Chúng ta nhận ra Thiên Chúa trong con người Chúa Giê-su. Để diễn tả cách hết sức thuyết phục mầu nhiệm này của Đức Kitô, Công đồng tuyên bố Đức Mẹ Ma-ri-a tước hiệu The-ó-to-kos, Mẹ Thiên Chúa.

      Nhưng vẫn tồn tại những cách khác để bảo vệ cái ý niệm tự nhiên (định kiến) về Thiên Chúa. Vào thời Công đồng Ê-phê-sô, những người thuộc phái Mô -nô -phy-si-te đã nêu giải pháp này. Trong hàng ngũ của họ có rất nhiều tu sĩ. Họ công nhận cách rất tôn kính đồng nhất tính trong bản vị của Đức Kitô, nhưng họ thấy nó theo cách là  ngài chỉ sở hữu bản tính thiêng liêng mà thôi. Không có bản tính con người thật sự đằng sau mọi tính cách con người của Đức Kitô. Con Thiên Chúa chỉ hành động như thể là có ở đó. Ngài không thật sự là con người. Thiên Chúa sống ở trần gian chỉ với sự xuất hiện bề ngoài của con người.

      Các nhãn quan lầm lạc này có thể còn ảnh hưởng tới khái niệm của chính chúng ta về Đức Kitô, đặc biệt có thể xảy ra với người ngoan đạo. Tính thiêng liêng của Chúa Giê-su bị làm thành chủ yếu nổi bật quá đổi khiến không thấy thêm được gì cả. Do đó, đôi khi ta có thể đọc các bài mô tả Đức Kitô hài đồng chỉ cư xử như thể ngài là một đứa trẻ. Có thể nói Chúa Giê-su chỉ giả bộ sống một đời sống loài ngưới. Cùng với việc ngài không tăng trưởng như một con người, ngài không suy nghĩ và cảm xúc như một con người. Ngài hoàn hảo tuyệt đối, chỉ xuất hiện cách bề ngoài với hình dạng con người.

      Vì những ý niệm ấy nên sau Công đồng xác định bản tính thiêng liêng của Đức Kitô (Ni-cê-a) và sau Công đồng xác định đồng nhất tính của Đức Kitô (Ê-phê-sô), cần một hội nghị thượng đỉnh khác nữa để bảo vệ bản tính con người của Đức Kitô. Bằng những lời lẽ tôn kính và dứt khoát, bản công bố được đưa ra tại Công đồng Can-xê-đôn vào năm 451, chỉ hai mươi năm sau Ê-phê-sô. Công đồng ấy tuyên bố rằng trong bản vị của Đức Kitô không chỉ có bản tính thiêng liêng mà còn có bản tính loài người cùng hiện hữu trong sự toàn vẹn. Thiên Chúa thật xuất hiện trong một con người thật. Sự oai nghiêm của Thiên Chúa cũng mật thiết với chúng ta, cũng thân ái, thương xót, uy nghi và can dự vào cuộc chiến đấu chống lại sự dữ, như Chúa Giê-su vậy. 

      Lúc ấy, dứt bỏ các giải thích đa đoan có tính cách loài người của chúng ta. Chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa hiện hữu như thế nào, trong Chúa Giê-su, đấng đã sinh ra, chết  đi và sống lại, và tiếp tục sống trong Giáo Hội bằng Thánh Linh ngài.

      Cũng dứt bỏ luôn các nỗi sợ hãi của chúng ta. Trong ngài, đấng chiến đấu chống lại sự dữ vì chúng ta, "tới độ chảy hết máu mình ra", chúng ta nhận biết lối đi chân chính vào thực tại của mầu nhiệm Thiên Chúa. Con tim loài người của Đức Kitô là tấm lòng của Thiên Chúa.

Điều này can dự tới con người ra sao

      Cả ba công đồng ấy được những người thành lập tông phái Cải Cách (Thệ phản – Tin Lành) ở thế kỷ mười sáu chấp nhận cách cởi mở và bảo toàn được tính độc nhất và tính mới lạ của biểu thị của Đức Kitô. Các công đồng ấy được tiến hành trong những hoàn cảnh khó khăn có thể là lớn lao nhất. Nhưng qua cả ba, Thiên Chúa mang loài người đến một trình độ phát triển và nhận thức mới.

      Có thể thấy điều này ở một mức độ nào đó qua những nghiên cứu sau đây. Như lịch sử ngôn ngữ cho thấy, khái niệm của chúng ta về "con người", trong ý nghĩa nhân bản sâu xa của từ ngữ này chỉ được sáng làm sáng tỏ qua công việc của các công đồng trên.

      Người La Mã từng có từ "persona" mà họ đã sử dụng như một thuật ngữ pháp lý để mô tả một công dân tự do. Thế có nghĩa, kẻ nô lệ không phải là một persona. Người Hi Lạp từng có khái niệm về "cá nhân", individualis, nghĩa là, sự thể hiện bản tính loài người phổ quát trong một đơn vị độc lập, đơn nhất.  Nhưng cá tính không thay thế được mà mỗi người thể hiện, với phẩm giá đặc biệt và không đo lường được – đều được diễn tả bằng thuật ngữ "con người loài người" – chỉ trở nên rõ ràng trong thời gian có những công đồng vĩ đại trên. Vì Con Thiên Chúa đã thật sự là người nên  mọi con người loài người sỡ hữu một phẩm giá vô giá. Vì thế đưa đến sự xác tín về phẩm giá và các quyền của con người, bao gồm cả người thiếu năng lực, những phần tử có vẻ như không sinh lợi cho xã hội. Một khi sự hiện hữu của kẻ khác được thừa nhận là một con người thì sự chiếm hữu nô lệ đã đánh mất nọc độc tệ hại nhất của nó ngay cả trước khi xảy ra việc thật sự hủy bỏ nó về mặt kinh tế và xã hội. Phải mất nhiều thế kỷ các chân lý như thế mới thấm nhập được vào loài người. Nếu Đức Kitô không ra đời thì chúng ta không thể biết loài người ngày nay ở vào trình độ nào. Không Kitô hữu cả người theo nhân bản chủ nghĩa lẫn người theo chủ nghĩa Mác nào có thể biết được. Nhưng ta có thể hiểu điều ấy như thế nào? Không ai có thể am hiểu trọn vẹn điều mà mạc khải của Thiên Chúa đang hoàn tất trong thế gian.

      Một số hiệu quả có thể thấy được trong nghệ thuật. André Malraux, một nhà văn sành sỏi nghệ thuật của loài người và bản thân không phải là một Kitô hữu, đã nêu được điều ấy ra. Ông thấy là, những khuôn mặt trong nghệ thuật La Mã là những "bản tính" nguyên thủy, những tiêu biểu tổng quát về bản tính con người; trong khi dung mạo của một bức tượng Trung Cổ là một câu chuyện về một cuộc đời.  "Và những đôi môi thanh tú nhất thuộc nghệ thuật Gô-tic tựa hồ như những vết thẹo để lại bên cạnh cuộc đời."

      Những suy nghĩ này có vẻ làm chúng ta đi xa đề tài của mình là sự nhập thể. Nhưng chúng giúp chúng ta thấy việc làm người của Thiên Chúa liên hệ mật thiết biết bao với việc làm người của con người – trong cách thức mà Thiên Chúa muốn bày tỏ ngài hiện hữu. Thực thế, với khả năng thiêng liêng hoá của ngài, như được đề cập tới vào thời các công đồng vĩ đại: Thiên Chúa thực sự làm người với mục đích để cho chúng ta thật sự trở nên thiêng liêng. Toàn bộ loài người đều can dự vào.

      Tín lý không chỉ là những lời nói, mà là những giá trị – những giá trị mở rộng thêm tầm nhìn của chúng ta. Thành tựu lớn lao về Kitô học của ba công đồng ấy đã mở rộng tới mức có thể được các lối đi nhỏ hẹp của chúng ta. Cả ba không loại bỏ gì cả. Mọi điều cả ba làm là để loại bỏ những phủ nhận con người. Cả ba tháo mở mầu nhiệm hé lộ trong phúc âm.

(còn nữa)

Tác giả: