Nhảy đến nội dung

18 Bài 18

  • T4, 22/01/2025 - 20:51
  • admin1

Bài 18


BÍ TÍCH HÔN PHỐI
(The Sacrament of Matrimony)

( Glý # 1601 – 1666 )

A - KT  DẪN NHẬP - “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không đụợc phân ly” (Mt 19, 6).

B - NỘI DUNG -

LỜI MỞ ĐẦU : Do giao ước hôn phối, người nam và người nữ tạo nên với nhau một cuôc hiệp thông trọn cả cuộc sống. Tự bản tính, giao ước hôn phối hướng về thiện ích của đôi bạn và việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Chúa Kitô nâng giao ước hôn phối giữa những người đã chịu phép Rửa tội lên hàng Bí tích /Glý # 1601/ (Giáo luật #1055 triệt 1)

I - HÔN NHÂN TRONG KẾ HOẠCH THIÊN CHÚA  (Marriage In God’s Plan)

1 - Thiên Chúa kêu gọi con người sống trong tình yêu vợ chồng với viển ảnh tốt đẹp như thế nào ?  Thiên Chúa đã tạo dựng con người vì tình yêu thì cũng kêu gọi con người sống yêu thương, chính là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh (the fundamental and innate vocation) của một con người, vì con người đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (xem St 1, 27). Chính Chúa là tình yêu (xem 1Ga 4, 8 ; 4, 16). Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, tình yêu của họ với nhau trở thành hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt mà Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu này tốt đẹp. Rất đẹp dưới con mắt Đấng Tạo Hóa (xem St 1, 31). Và tình yêu này được Thiên Chúa chúc phúc nhằm hướng tới sinh sản và được thực hiện trong công cuộc chung là gìn giữ công việc tạo dựng. Và Thiên Chúa đã chúc lành cho họ và đã phán với họ rằng : “Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy nên đầy dẫy trên mặt đất và hãy bá chủ nó” (xem St 1, 28). / Glý #1604 /

2 - Kinh Thánh đã khẳng định người nam và người nữ trở thành vợ chồng sống gắn bó và mật thiết như thế nào ?    Kinh Thánh đã khẳng định rằng người nam và người nữ đã được tạo dựng cho nhau : “đàn ông ở một mình không tốt”. Còn người đàn bà là “thịt bởi thịt của chàng”, nghĩa là đương đối với chàng, là bình đẳng với chàng và rất gần gũi với chàng nhất, đã được Thiên Chúa ban cho chàng để làm “người nương tựa”, cho nên nàng tượng trưng cho “sự phù giúp của Thiên Chúa cho chúng ta” (xem Tv 121, 2). “Vì thế người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ trở thành một thân xác” (St 2, 24). Chính Chúa cũng cho thấy sự kết hợp bất khả phân ly của đời sống vợ chồng của họ bằng cách nhắc lại kế hoạch của Đấng Tạo Hóa “từ thuở ban đầu”. “Như thế họ không còn là hai, nhưng một thân xác” (xem Mt 19, 6). /Glý # 1605/

3 - Vì sao Hội Thánh xác nhận hôn nhân là dấu chỉ hữu hiệu của sự hiện diện Chúa Kitô ?   Lúc mới khởi đầu cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên trong một tiệc cưới theo lời yêu cầu của Mẹ Người (xem : Ga 2,1-11). Hội Thánh đặt tầm quan trọng rất lớn vào sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Ca-na. Hội Thánh coi đó là sự xác nhận tính thiện hảo của hôn nhân với lời loan báo rằng từ nay hôn nhân sẽ là dấu chỉ hữu hiệu của sự hiện diện của Chúa Kitô (an efficacious sign of Christ’s present). /Glý #1613 /

4 - Chúa Kitô đã khẳng định tính bất khả phân ly của vợ chồng như thế nào ?   Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu đã dạy một cách rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của sự phối hiệp nam và nữ, như Đấng Tạo Hóa đã muốn từ lúc ban đầu : việc ông Mô-sê cho phép một người ruồng bỏ vợ là một nhân nhượng đối với lòng con người chai đá (Mt 19, 8). Sự phối hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ là bất khả phân ly chính Thiên Chúa đã xác định : “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 6 ; Mc 10, 9). /Glý #1614/

5 - Tình yêu vợ chồng được thể hiện như thế nào ?   Điều mà thánh Phao-lô muốn chúng ta nắm vững khi ngài nói : “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5, 25-26), và ngài còn thêm ngay rằng : Chính vì thế, đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà  gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật cao cả.Tôi muốn nói về Chúa Kitô và Hội Thánh”(x.  Êp 5, 31-32). (Glý # 1659) / Glý #1616 /

6 - Bản tính của giao ước hôn phối là gì ?   Giao ước hôn phối, qua đó một người nam và một người nữ thiết lập với nhau thành một cộng đoàn sống chung mật thiết và yêu thương. Giao ước này đã được Tạo Hóa thành lập và phú ban những luật riêng. Tự bản tính, giao ước hôn phối hướng về thiện ích của đôi bạn và việc sinh sản cùng giáo dục con cái (By its very nature it is ordered to the good of the couple, as well as to the generation and education of children). Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn phối giữa người đã chịu phép Rửa tội lên hàng Bí tích (the dignity of a sacrament). (Glý #1660) (Gluật # 1055 triệt 1)

II - CỬ HÀNH NGHI LỄ HÔN PHỐI  (The Celebration of Marriage)

7 - Nghi lễ hôn phối cần được cử hành như thế nào ?   Vì hôn phối thiết lập cho đôi bạn vào bậc sống công khai trong đời sống Hội Thánh, điều thích hợp là hôn phối cần được cử hành công khai trong khuôn khổ của nghi lễ phụng vụ, trước một Linh mục (hay một người chứng hôn có thẩm quyền của Hội Thánh), các nhân chứng và cộng đồng tín hữu. (Glý #1663)

8 - Vì sao Bí tích Hôn phối giữa hai người Công giáo cần được cử hành trong Thánh lễ ?  Trong nghi thức La tinh, Bí tích Hôn phối giữa hai người tín hữu Công giáo cần được cử hành trong Thánh lễ bởi vì sự liên hệ của tất cả các Bí tích với mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô. Trong Hy lễ Thánh Thể được nhận thức là cuộc tưởng nhớ Giao ước mới, trong đó Chúa Kitô phối hợp vĩnh viễn với Hội Thánh, Hiền Thê yêu dấu của Người, mà chính Người đã hy sinh cho (xem Êp 5, 25-33). Cho nên thật là thích hợp để hai người phối ngẫu tự đóng dấu ấn của sự ưng thuận hiến thân trọn đời cho nhau, bằng cách kết hợp với sự hiến dâng của Chúa Kitô cho Hội Thánh, được hiện tại hóa (made present) trong Hy lễ Thánh Thể và họ rước lấy Thánh Thể Chúa Kitô, cùng hiệp thông Mình và Máu Chúa Kitô để “làm nên một thân thể trong Chúa Kitô” (1Cr 10,17). /Glý #1621/

9 - Trước khi kết hôn đôi bạn cần được lãnh nhận các bí tích nào ?

* Bởi vì như là một tác động Bí tích mang ơn thánh hóa, việc cử hành phụng vụ của hôn nhân tự thân là thành sự, xứng đáng và sinh sản. Vậy thật là thích hợp cho cô dâu chú rể chuẩn bị cho việc cử hành hôn lễ bằng việc lãnh nhận Bí tích Sám hối và Hòa giải (BT Xưng tội). / Glý # 1622 /

* Những người công giáo chưa lãnh nhận bí tích Thêm sức thì trước khi chuẩn bị kết hôn phải thưa với Linh mục để xin Ngài lo liệu cho được lãnh nhận bí tích này. (xem Gluật #1065)

10 - Ai là thừa tác viên của bí tích Hôn phối ?  Trong Hội Thánh La tinh, người ta thường quan niệm chính đôi bạn là những thừa tác viên của ân sủng Chúa Kitô, họ ban Bí tích Hôn phối cho nhau bằng cách bày tỏ sự ưng thuận của mình trước mặt Hội Thánh. /Glý #1623/

III - SỰ ƯNG THUẬN KẾT HÔN  (Matrimonial consent)

11 - Hai bên lập giao ước hôn nhân cần có những điều kiện nào ?  Hai bên lập giao ước Hôn nhân là một người nam và một người nữ đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội tự do ký giao ước hôn nhân và bày tỏ sự ưng thuận một cách tự do. “tự do” có nghĩa là :

không bị cưỡng ép (not being under constraint).

* không bị ngăn trở bởi bất kỳ luật tự nhiên hay luật Hội Thánh nào (not impeded by any natural or ecclesiastical law). /Glý # 1625/

12 - Yếu tố cần thiết để làm nên cuộc hôn nhân là gì ?

* Hội Thánh coi sự trao đổi lời ưng thuận giữa đôi bạn kết hôn là yếu tố cần thiết để “làm nên cuộc hôn nhân” (xem Gluật #1057 triệt 1). Nếu thiếu sự ưng thuận không có hôn nhân (If consent is lacking there is no mariage). /Glý #1626 /

* Sự ưng thuận là do bởi “một hành vi nhân linh trong đó hai người vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau” (MV 48, 1), (xem Gluật #1057 triệt 2). “Anh nhận em làm vợ” - “Em nhận anh làm chồng”. Sự ưng thuận này liên kết hai người phối ngẫu với nhau và được hoàn tất khi hai người “trở thành một thân xác” (St 2, 24 ;  Mc 10, 8 ;  Êp 5, 31). /Glý #1627 /

* Hôn phối được xây dựng trên sự ưng thuận của hai bên kết ước, nghĩa là trên ý muốn hiến thân cho nhau một cách dứt khoát nhằm mục đích sống một tình yêu trung thành và phong phú. (Glý #1662)

13 - Trong các cuộc hôn nhân khác đạo, phía Công giáo có nhiệm vụ riêng biệt gì ?  Trong các cuộc hôn nhân khác đạo, nguời Công giáo có một nhiệm vụ riêng biệt : “Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ có đạo, và vợ ngoại đạo được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1Cr 7, 14). Sẽ là một niềm vui lớn cho người phối ngẫu Công giáo và cho Hội Thánh, nếu sự “thánh hóa” dẫn tới người phối ngẫu kia trở lại và tự do lãnh nhận đức tin Kitô giáo (xem 1Cr 7, 16). Tình yêu vợ chồng chân thành sống khiêm nhường và kiên nhẫn. Sự thực thi các nhân đức trong gia đình và kiên trì cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người phối ngẫu không tin nhận ân sủng của việc trở lại. /Glý #1637/

IV -NHỮNG HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH HÔN PHỐI (The Effects of  the Sacrament of Matrimony)

14 - Vì sao nói Chúa Kitô là nguồn mạch ân sủng của Bí tích Hôn phối ?  Chúa Kitô là nguồn mạch ân sủng của Bí tích Hôn phối. Chính ngày xưa Thiên Chúa đã gặp gỡ dân Người bằng một giao ước tình thương và trung thành, thì ngày nay Đấng Cứu Độ chúng ta, Hôn Phu của Hội Thánh, tới gặp gỡ các vợ chồng Kitô hữu qua Bí tích Hôn phối. Người ở lại với họ, ban cho họ sức mạnh để vác thập giá theo Người, chỗi dậy sau những khi sa ngã, biết tha thứ cho nhau, mang gánh nặng của nhau (Gl 6,2), “tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Chúa Kitô” (xem Êp 5, 21), và yêu thương nhau bằng một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và phong phú. Trong những niềm vui của tình yêu và cuộc sống gia đình họ ngay ở trần thế này, được nếm trước bữa tiệc cưới của chiên con (a foretaste of the wedding feast of the Lamb) :

     “Làm thế nào tôi có thể diễn tả hết hạnh phúc hôn nhân được liên kết nhờ Hội Thánh, được lễ vật làm cho vững mạnh, được phúc lành đóng ấn, được Thiên thần loan báo và được Chúa Cha chứng thực ? Tuyệt diệu biết bao sự liên kết giữa hai tín hữu cùng niềm hy vọng, cùng một ước muốn, cùng một kỷ luật, cùng một sự phục vụ, liên kết trong một tinh thần và trong một thể xác. Ở đâu thể xác là một thì tinh thần cũng là một” (Tertullian). /Glý # 1642/

15 - Bí tích Hôn phối có những ân sủng riêng nào ?   BT Hôn phối biểu hiệu sự kết hiệp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. BT này ban cho vợ chồng ân sủng để yêu nhau bằng tình yêu mà Chúa Kitô đã yêu HT Người ; ân sủng của BT này làm cho hoàn thiện tình yêu nhân loại của vợ chồng, làm kiên vững sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ và thánh hóa họ trên hành trình hướng về đời sống vĩnh cửu. (Glý # 1661)

V - NHỮNG THIỆN ÍCH VÀ ĐÒI HỎI CỦA TÌNH YÊU VỢ CHỒNG (The Goods and Requirements of Conjugal Love) 

 

16 - Hôn phối Kitô giáo có những đặc tính nào ?   Duy nhất, bất khả phân ly và hướng về sinh sản là

đặc tính của hôn phối Kitô giáoĐa thê, đa phu là mâu thuẫn với đặc tính duy nhất của hôn phối ; ly dị phân ly điều mà Thiên Chúa đã kết hợp (Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly (Mt 19, 6) ; từ chối truyền sinh là quay mặt đi với “ân huệ cao qúy nhất” trong đời sống vợ chồng là con cái. (Glý #1664).

17 - Muốn điều hòa sinh sản vợ chồng nên làm gì ?   Sự tiết dục từng thời kỳ (Periodic continence), những phương pháp điều hòa sinh sản dựa trên sự tự chế hoặc dựa vào những thời gian không thể thụ thai được coi là phù hợp với tiêu chuẩn khách quan của đạo đức (the objective criteria of morality). Các phương pháp này tôn trọng thân thể của hai vợ chồng, khuyến khích sự âu yếm nhau, và thuận ý rèn luyện một sự tự do thật sự. Ngược lại “bất cứ hành động nào, hoặc đang thực hiện hành vi vợ chồng, hoặc đang phát triển hậu quả tự nhiên coi như mục đích hay phương tiện nhằm làm cho không thể có sự sinh sản là xấu nội tại (intrinsically evil)”. /Glý #2370/

18 - Người Kitô hữu ly dị, tái hôn phải ý thức những gì ? Cuộc tái hôn của những người ly dị, trong khi người phối ngẫu còn sống là vi phạm ý định và luật của Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã dạy. Họ không bị tách rời khỏi Hội Thánh nhưng không được rước Mình Thánh Chúa. Họ sẽ sống đời Kitô hữu của họ một cách đặc biệt bằng cách giáo dục con cái trong đức tin. (Glý #1665) (Xem thêm Glý # 2384 : “ Ly dị vi phạm nghiêm trọng luật tự nhiên, …người tái hôn, sau khi ly dị, phạm tội ngoại tình công khai và thường xuyên”…

VI- HỘI THÁNH TẠI GIA  (The Domestic Church)

19 - Tại sao gia đình Kitô giáo là Hội Thánh tại gia ?   Gia đình Kitô giáo là nơi con trẻ tiếp nhận lời loan báo đầu tiên về đức tin. Chính vì thế, mái ấm gia đình được gọi là “Hội Thánh tại gia”, cộng đoàn ân sủng và cầu nguyện, trường học các nhân đức nhân bản (human virtues) và đức bác ái Kitô giáo. (Glý #1666)

20 - BÀI ĐỌC THÊM -     Đứa trẻ hấp thụ những gì từ môi trường chúng đang sống :

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí chỉ trích,

                       Em sẽ thích kết án người khác.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí nghịch thù,

                       Em sẽ bướng bỉnh hiếu chíến.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí chế giễu,

                       Em sẽ nhút nhát, rụt rè.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí sợ sệt,

                       Em sẽ mặc cảm tội lỗi.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí khuyến khích,

                       Em sẽ hiền hòa thông cảm.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí cởi mở,

                       Em sẽ bộc lộ cảm nghĩ riêng tư.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí tán thưởng,

                       Em sẽ phát triển tài năng.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí công bằng,

                       Em sẽ bênh vực sự thật.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí bác ái,

                       Em sẽ thấu hiểu lề luật Chúa.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí cầu nguyện gương mẫu,

                       Em sẽ tìm thấy niềm tin.

Nếu đứa trẻ sống trong bầu khí có Chúa ngự trị,

                       Em sẽ phát triển toàn diện nhân cách.

                        Lược dịch từ “Children learn what they live” không bết tác giả..

GHI CHÚ - Tham khảo thêm các đọan Giáo lý :

* Glý #1655 : Chúa Kitô đã sinh ra và lớn lên trong lòng Thánh gia thất của thánh Giuse và Mẹ Maria. Và Hội Thánh không gì khác hơn là “gia đình của Thiên Chúa”. Ngay từ ban đầu, hạt nhân của Hội Thánh được hình thành bởi những người đã trở thành những tín hữu “cùng với toàn thể gia đình họ” (xem Cv 18, 8). Khi họ được trở lại, họ cũng ước ao“tất cả gia đình của họ được ơn cứu độ” (xem Cv 16, 31 ; 11, 14). Các gia đình đã trở thành tín hữu này đã là những nhóm riêng biệt sống đời sống Kitô giáo trong một thế giới chưa tin.  

* Glý #1656 : Thời chúng ta, trong một thế giới thường xa lánh và ngay cả chống đối đức tin, các gia đình tín hữu có tầm quan trọng bậc nhất, vì đó là những tâm điểm đức tin sống động và tỏa sáng. Do đó Công đồng Vatican II (The Second Vatican Council) dùng danh xưng cổ xưa, gọi gia đình như “một Hội Thánh nhỏ”. Ước gì cha mẹ là những người đầu tiên dùng gương lành và lời nói mà truyền dạy đức tin cho con cái, cũng như phải cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa con và phải đặc biệt chăm sóc đến ơn gọi làm Linh mục (GH số 11).

* Glý #1657 : Chính nơi đây người cha của gia đình, người mẹ, con cái và tất cả thành viên của gia đình thực thi chức tư tế của Bí tích Rửa tội nhờ cách thức riêng  “qua việc nhận lãnh các Bí tích, lời cầu nguyện và cảm tạ, chứng tá của đời sống thánh thiện, và qua sự từ bỏ mình và sống đức bác ái thiết thực”.  Như vậy mái ấm gia đình là trường dạy đầu tiên về đời sống Kitô giáo và “gia đình là một trường học phát triển nhân tính” (MV 52,1). Nơi gia đình, nguời ta học tập được sức chịu đựng và niềm vui trong công việc làm, tình yêu huynh đệ, lòng quảng đại, tha thứ dù nhiều lần và trên hết là việc học tập việc thờ phượng Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện và hiến dâng cuộc đời mình .

C - THỰC HÀNH -

*  Gia đình cầu nguyện gia đình hạnh phúc.

*  Vợ chồng yêu thương chia sẻ chân thành những ưu tư, hạnh  phúc.

*  Đối thoại, lắng nghe, thông cảm, tương trợ, nhịn nhục, yêu thương và tha thứ.

*  Đồng hành và cộng tác trong mọi tình huống của cuộc đời.

*  Trung thành và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo và  giáo huấn của Hội Thánh.

*  Vợ chồng như hai giọt nước được hòa tan trong một ly nước tràn đầy của tình yêu Thiên Chúa mai sau trên thiên đàng, đó là cùng đích của tình yêu vợ chồng. Tình yêu vợ chồng gặp nhau trên thiên đàng là trở về với tình yêu nguyên thủy của Thiên Chúa Ba Ngôi : Thiên Chúa là Tình yêu.