Nhảy đến nội dung

26 Phụ Bản B

  • CN, 19/01/2025 - 18:04
  • admin1

PHỤ BẢN B

Bài Giảng

của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

tại Fátima, ngày 13 tháng Năm, 1982

1. “Và từ giờ phút đó người môn đệ đưa Đức Mẹ về nhà mình.” (Gioan 19:27).

Đây là những lời kết thúc bài Phúc Âm trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay tại Fátima. Người môn đệ đó tên là Gioan, chính là ngài, Gioan, con trai ông Zebedee, Tông Đồ Thánh Sử, đã nghe những lời Chúa Giêsu từ thập giá vọng xuống: “Hãy nhận mẹ của anh.” Nhưng trước nhất, Chúa Kitô đã nói với mẹ Ngài: “Hỡi Bà, xin nhận con của bà.”

Đây là lời phán thần diệu.

Khi Chúa từ bỏ thế gian, Chúa đã ban cho Mẹ của Chúa một người con, một nhân loại, làm con của Mẹ: Gioan, Chúa ký thác Gioan cho Đức Mẹ. Do việc ban cho và ký thác này, Đức Maria trở nên mẹ của Gioan. Mẹ Thiên Chúa trở nên mẹ nhân loại.

Từ giờ phút đó Gioan “đã đưa Đức Mẹ về nhà mình” và trở thành người hộ vệ trần thế cho mẹ của Thầy mình; vì con có quyền và trách nhiệm săn sóc phụng dưỡng mẹ của mình. Do ý Chúa muốn, Gioan đã trở nên con của Mẹ Thiên Chúa. Và trong Gioan, mọi cá nhân trần thế trở nên con của Mẹ.

2. Những lời “người môn đệ Gioan đưa Đức Mẹ về nhà mình” có thể hiểu theo nghĩa bóng là nơi ông Gioan sinh sống.

Tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta hiển nhiên rõ ràng cách riêng tại những nơi Đức Mẹ gặp chúng ta: những nơi Đức Mẹ ở, những nơi chúng ta cảm thấy Đức Mẹ hiện diện.

Có nhiều nơi Đức Mẹ hiện diện như thế. Những nơi đó thuộc đủ mọi loại: từ một góc đặc biệt trong nhà hoặc những chỗ bên lối đi được kiến trúc đặc biệt để dâng kính Mẹ. Tuy nhiên, tại một số nơi, sự hiện diện của Mẹ được cảm thấy cách linh động đặc biệt. Nhưng nơi này đôi khi tỏa ánh sáng ra rất xa và lôi kéo nhiều người từ những nơi xa xăm tới. Ánh sáng rực rỡ từ những nơi này chiếu trên các giáo phận, quốc gia, có khi khắp nhiều quốc gia và cả đại lục. Những nơi này là các linh địa Mẹ Maria.

Chính tại những nơi này lời di chúc duy nhất của Chúa treo trên thánh giá được thực thi cách thần diệu. Tại những nơi này người ta cảm thấy được ký thác và giao phó cho Mẹ Maria; người ta tới đó để sống với Mẹ Maria như sống với chính mẹ ruột của mình, người ta tỏ bày tâm sự với Mẹ, kể lại mọi điều với Mẹ. Người ta “đưa Đức Mẹ về nhà mình” có nghĩa là người ta đưa Đức Mẹ vào mọi vấn đề của mình, mà những điều này nhiều khi khó giải quyết - những khó khăn cá nhân và của những người khác nữa. Những khó khăn trong gia đình, xã hội, các quốc gia, và toàn thể nhân loại.

3. Đây không phải là trường hợp linh địa Lourdes (Lộ-đức) hay sao? Đây không phải là trường hợp Jasna Gora ở Poland (Ba-lan), linh địa Đức Mẹ tại chính quê hương của cha mà năm nay kỷ niệm lần thứ sáu trăm đó sao?

Cũng tại những nơi đó, và nhiều linh địa khác của Đức Mẹ, những lời kinh phụng vụ ngày hôm nay có vẻ như vang lên với sức mạnh khác thường: “Bà là vinh quang hãnh diện cho dân chúng tôi” (Judith 15:9) và nữa: “khi dân của bà bị áp bức ... bà phá tan ác họa cho chúng tôi, đi đứng thẳng ngay trước nhan thánh Chúa chúng tôi” (Judith 13:20).

Tại Fátima những lời này vang lên như tiếng dội đặc biệt đã từng xảy ra không chỉ riêng với Portugal (Nước Bồ-đào-nha), mà cũng đối với nhiều quốc gia và dân tộc khác trên trái đất này. Thật vậy, những lời đó vang lên những lo âu xảy ra hàng ngày của toàn thể gia đình nhân loại văn minh ngày nay.

4. Cha tới đây hôm nay bởi vì chính ngày này năm trước (1981), tại Quảng Trường Thánh Phêrô, việc mưu sát cha đã xảy ra trùng hợp kỳ diệu với ngày kỷ niệm lần thứ nhất Đức Mẹ hiện ra tại Fátima, ngày 13 tháng Năm, 1917.

Dường như cha nhìn thấy sự trùng hợp ngày tháng này là lời kêu gọi đặc biệt phải đến đây. Và vì vậy hôm nay cha có mặt tại đây. Cha tới để tạ ơn Chúa quan phòng tại chính nơi mà dường như Mẹ Thiên Chúa đã chọn cách riêng. Cha lặp lại lời đấng tiên tri: “Hồng ân Thiên Chúa không khi nào cạn, lòng thương xót của Chúa không bao giờ vơi (Miseridordiae domini, quia non sumus con-sumpti)” (Ai ca 3:22).

Cha đến để xưng tụng tại đây vinh quang Thiên Chúa theo những lời kinh phụng ngày hôm nay: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất.” (Judith 13:18).

Cha cũng dâng lên Đấng tạo thành trời đất bài ca ngợi đặc biệt chính Đức Mẹ, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ngôi Lời Nhập Thể:

“Phúc cho con, hỡi Ái Nữ, bởi Thiên Chúa Tối Cao, hơn mọi phụ nữ trên trái đất ... hành động cậy trông của con sẽ không khi nào bị lãng quên bởi những kẻ nói đến quyền năng Thiên Chúa. Xin Thiên Chúa làm cho việc này thêm vào vinh quang đời đời của con.” (Judith 13:18-20).

Tại đây cũng như nhiều nơi khác trên trái đất, Giáo Hội hân hoan dâng lên bài ca khen ngợi này để ca tụng việc chọn lựa vô song một người con gái của dòng dõi nhân loại làm Mẹ Thiên Chúa.

Và chúng ta cùng nhau ngợi khen Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Ca tụng và tôn kính Đức Maria, gương mẫu của Giáo Hội, là “nơi Thiên Chúa Ba Ngôi ngự.”

5. Từ khi Chúa Giêsu, đang hấp hối trên thánh giá nói với Gioan: “Anh hãy đón nhận mẹ của anh,” từ đó “người môn đệ này đưa Đức Mẹ về nhà mình,” mầu nhiệm tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ Maria đã được vận dụng vô bờ bến trong lịch sử.

Tình mẫu tử có nghĩa là lo lắng săn sóc cuộc sống của người con. Vì Mẹ Maria là mẹ tất cả chúng ta, sự lo âu săn sóc của Mẹ đối với cuộc sông nhân loại dành cho tất cả mọi người. Sự ân cần săn sóc của bà mẹ bao bọc đứa con hoàn toàn. Tình mẫu tử của Mẹ Maria đã khởi sự trong tình Mẹ săn sóc lo lắng cho Chúa Kitô. Trong Chúa Kitô, tại chân thánh giá, Mẹ đã chấp nhận Gioan, và trong Gioan, Mẹ đã chấp nhận chúng ta trọn vẹn.

Mẹ Maria bao bọc tất cả chúng ta bằng tình yêu thương đặc biệt trong Chúa Thánh Thần. Vì như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính, Chúa Thánh Thần là “Đấng Ban Sự Sống” chính Chúa Thánh Thần ban sự sung mãn cho cuộc sống, mở rộng hướng về đời đời.

Bởi vậy tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ Maria là sự chia sẻ quyền năng của Chúa Thánh Thần, của “Đấng Ban Sự Sống.” Đó là sự khiêm tốn phục vụ mà Mẹ nói về Mẹ: “Thưa, tôi là nữ tì của Thiên Chúa.” (Luca 1:38).

Trong ánh sáng mầu nhiệm tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ Maria, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thông điệp đặc biệt từ Fátima vang lên khắp thế giới, bắt đầu từ ngày 13 tháng Năm, 1917, và năm tháng kế tiếp cho tới tháng Mười năm đó.

6. Giáo Hội luôn luôn giảng dạy và không ngừng xưng tụng rằng việc Thiên Chúa mạc khải được thực hiện và hoàn thành trong Chúa Kitô, Đấng là sự hiện thân sung mãn, và “không có thêm một lần nào nữa Chúa tỏ mình ra rõ ràng với mọi người được mong đợi xảy ra cho tới khi Chúa đến trong vinh quang” (Hiến Chế Dei Verbum, 4). Giáo Hội thẩm định và xét đoán những lần thiên đàng hiện ra dưới tiêu chuẩn khắt khe căn cứ vào lần Chúa tỏ mình ra công khai cho mọi người đó.

Nếu Giáo Hội chấp nhận thông điệp Fátima, thì lý do tối yếu là bởi vì thông điệp đó chứa đựng điều chân thực và lời kêu gọi mà nội dung căn bản (của thông điệp đó) là chân lý và lời mời gọi của Phúc Âm.

“Hãy sửa đổi cuộc sống, và tin vào Phúc Âm” (Marc 1:15). Đây là những lời đầu tiên Chúa Cứu Thế đã nói với loài người. Thông điệp Fátima, nguyên từ căn bản, là lời kêu gọi cải hóa và thống hối, như trong Phúc Âm. Lời kêu gọi này được đưa ra vào đầu thế kỷ hai mươi, và vì vậy thông điệp này nói cách riêng với thế kỷ đương đại. Đấng ban thông điệp đó đã thấu triệt “các dấu chỉ thời đại,” các dấu chỉ thời đại chúng ta.

Lời kêu gọi thống hối là lời kêu gọi của tình mẫu tử, đồng thời cũng mãnh liệt và quyết liệt. Tình yêu “reo vui trong Chân Lý” (tc. 1 Colossians 13:6) thì trong sáng và rõ ràng xác đáng. Lời kêu gọi thống hối luôn luôn liên kết với lời kêu gọi cầu nguyện. Hòa hợp với truyền thống từ nhiều thế kỷ nay, thông điệp của Đức Mẹ chỉ rõ kinh Mân Côi. Nếu được định nghĩa đúng, thì kinh Mân Côi là “Lời cầu nguyện của Mẹ Maria,” lời cầu nguyện mà trong đó Đức Mẹ cảm thấy Người kết hiệp với chúng ta cách đặc biệt.

Chính Đức Mẹ cầu nguyện chung với chúng ta. Lời cầu nguyện kinh Mân Côi bao bọc che chở những vấn đề khó khăn của Giáo Hội, của Tòa Thánh Phêrô và những vấn đề của thế giới. Trong kinh Mân Côi chúng ta cũng nhớ đến những kẻ tội lỗi, xin cho họ ăn năn trở lại để được cứu độ, và các linh hồn trong luyện ngục.

Những lời trong thông điệp Fátima Đức Mẹ nói với ba bé từ bảy đến mười tuổi. Cũng như Bernadette tại Lourdes, các bé này được hưởng đặc ân trong những lần Mẹ Thiên Chúa hiện ra tại đây.

Những lời Đức Mẹ nói đều giản dị, trong tầm hiểu biết của các bé. Các bé Fátima đã trở thành những người đối thoại với Đức Mẹ trong thông điệp và cộng tác viên của Người. Một trong các bé vẫn còn sống.

7. Khi Chúa Giêsu trên thánh giá nói: “Thưa Bà, xin nhận con của Bà” (Gioan 19:26), theo một cách mới Chúa đã mở rộng Trái Tim Mẹ của Chúa, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội, và cho Trái Tim Người thấy những tầm vóc mới và lòng yêu thương bao la mà Mẹ đã được Chúa Thánh Thần mời gọi bởi uy lực của hy sinh thập giá.

Trong những lời ở Fátima dường như chúng ta tìm thấy kích thước này của tình mẫu tử, mà tầm vóc của tình yêu này bao trùm toàn thể đường đưa nhân loại đến với Thượng Đế: con đường đi qua trần thế, qua luyện ngục, và vượt khỏi thế giới này. Lòng yêu thương của Mẹ Chúa Cứu Thế là tình yêu của công cuộc cứu chuộc, công việc của Con Mẹ. Đó là tình yêu cứu chuộc, tình yêu cứu rỗi đời đời cho chúng ta.

Lúc này, sáu mươi lăm năm đã qua kể từ ngày 13 tháng Năm, 1917, không thể nào mà chúng ta không nhận thấy tầm vóc tình yêu thương cứu độ này của Mẹ che chở cách riêng thế kỷ chúng ta.

Nhờ ánh sáng của tình mẫu tử, chúng ta hiểu toàn thể thông điệp của Đức Mẹ Fátima. Chướng ngại lớn nhất trong hành trình nhân loại đến với Thượng Đế là tội lỗi, lì lợm lặn ngụp trong tội lỗi và, sau cùng, chối bỏ Thượng Đế, quyết tâm xóa bỏ Thượng Đế khỏi tư tưởng của thế giới loài người, loại bỏ Thượng Đế ra khỏi mọi hoạt động trần thế của nhân loại: loài người chối bỏ Thượng Đế.

Trong thực tế, ơn cứu độ vĩnh cửu cho loài người chỉ có từ nơi Thượng Đế mà thôi. Việc loài người chối bỏ Thượng Đế, nếu như việc đó trở thành dứt khoát, đương nhiên, cách hợp lý, dẫn tới việc Thượng Đế chối bỏ nhân loại (tc. Matthêu 7:23), dẫn tới luận phạt đời đời.

Vậy thử hỏi, Hiền Mẫu Maria, với tất cả lòng yêu thương Mẹ nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần, hằng ước muốn cho nhân loại được cứu rỗi, có thể làm thinh đối với những gì làm hư hoại chính nền tảng việc cứu chuộc nhân loại được không? Không, Mẹ không thể làm thinh được.

Và vì vậy, trong khi thông điệp của Đức Mẹ Fátima là một thông điệp của hiền mẫu, thông điệp này cũng mạnh mẽ và quyết liệt. Thông điệp này nói lên cách nghiêm nghị. Thông điệp này nói lên cũng như Gioan Tẩy Giả nói bên bờ Sông Jordan. Thông điệp này kêu gọi ăn năn thống hối. Thông điệp này đưa ra lời cảnh cáo. Thông điệp này khuyến cáo cầu nguyện kinh Mân Côi.

Thông điệp Fátima gởi đến cho mọi người. Tình yêu thương của Mẹ Chúa Cứu Thế tới mọi nơi được tác động do công cuộc cứu chuộc. Lòng lo lắng ân cần săn sóc của Mẹ tới tất cả mọi cá nhân trong thời đại chúng ta và mọi xã hội, mọi quốc gia và mọi dân tộc, những xã hội bị hăm dọa vì từ bỏ Giáo Hội của Chúa, bị đe dọa vì luân lý suy đồi. Sự sụp đổ luân lý kéo theo sự sụp đổ xã hội.

8. Trên thánh giá, Chúa Kitô nói: “Thưa Bà, xin nhận con Bà.” Bằng những lời này, Chúa đã mở rộng Trái Tim Mẹ Chúa một cách mới. Chỉ một lúc sau, lưỡi giáo của người lính Roma đã đâm thủng sườn Đấng Bị Đóng Đinh Chết Trên Thập Giá. Trái Tim bị đâm thủng đó đã trở thành tiêu biểu việc cứu độ được thực hiện qua cái chết của Chiên Thiên Chúa.

Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria mở ra do những lời: “Thưa Bà, xin nhận con của Bà” và kết hiệp thiêng liêng với Trái Tim Con Mẹ đã bị đâm thủng bởi lưỡi giáo của người lính. Trái Tim Mẹ Maria đã được mở rộng do tình yêu đối với nhân loại và thế giới, mà bằng chính tình yêu đó Chúa Kitô đã yêu thương loài người và thế giới, tự hiến hy sinh trên thánh giá vì loài người, cho tới khi Trái Tim Chúa bị lưỡi giáo của người lính đâm thủng.

Dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là tới gần chính nguồn mạch sự sống phát khởi từ Golgotha qua lời Mẹ cầu bầu. Nguồn sự sống này không bao giờ ngưng đổ tràn đầy ơn cứu độ và ân sủng. Trong đó việc đền tạ được liên tiếp thực hiện để đền tạ tội lỗi thế giới. Đó chính là nguồn sự sống và thánh thiện mới không khi nào ngưng.

Dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria có nghĩa là trở lại nơi chân thánh giá Con của Mẹ. Việc này hiểu là dâng hiến thế giới cho Trái Tim Đã Bị Đâm Thủng của Chúa Cứu Thế, đưa thế giới trở về chính nguồn ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc luôn luôn vĩ đại hơn tội lỗi loài người và “tội lỗi thế giới.” Uy lực của ơn cứu chuộc siêu việt vô cùng so với sức mạnh của ma quỉ đối với nhân loại và thế giới.

Trái Tim Mẹ Maria biết rõ điều này, rõ hơn bất cứ trái tim nào trong thế giới hữu hình và vô hình.

Và vì vậy Mẹ kêu gọi chúng ta.

Không những Mẹ chỉ kêu gọi chúng ta cải đổi, Mẹ cũng kêu gọi chúng ta chấp nhận sự cứu giúp của tình mẫu tử của Mẹ mà quay về với chính nguồn ơn cứu chuộc.

9. Dâng hiến bản thân chúng ta cho Mẹ Maria nghĩa là chấp nhận Mẹ giúp hiến dâng chính chúng ta và toàn thế giới loài người cho Chúa, Đấng là Thánh, Thánh Vô Cùng; dâng hiến bản thân chúng ta cho Mẹ Maria nghĩa là nhận để Mẹ giúp đỡ vì có lòng trông cậy Trái Tim Hiền Mẫu của Mẹ, mà ở chân thánh giá, Trái Tim này đã mở ra để thương yêu mọi cá nhân loài người, để yêu thương toàn thế giới, hiến dâng thế giới, từng cá nhân và toàn thể nhân loại cùng tất cả mọi quốc gia cho Đấng Thánh Vô Cùng. Sự toàn thánh của Chúa tự biểu lộ trong việc cứu chuộc con người, cả thế giới, và mọi quốc gia, là việc cứu chuộc thể hiện qua hy sinh thánh giá, mà Chúa Giêsu đã nói: “Con hiến dâng chính Con vì họ” (Gioan 17:19).

Do uy lực ơn cứu chuộc, thế giới và loài người đã được hiến dâng. Thế giới và loài người đã được hiến dâng cho Đấng Thánh Vô Cùng. Thế giới và loài người đã được hiến dâng và ký thác cho tình yêu, tình yêu thương xót.

Mẹ Chúa Kitô kêu gọi chúng ta, mời gọi chúng ta kết hợp với Giáo Hội của Chúa Hằng Sống trong việc dâng hiến thế giới trong hành động ký thác, mà nhờ việc đó thế giới, toàn thể loài người, các quốc gia và mọi cá nhân được dâng lên Chúa Cha Hằng Sống với uy của việc cứu chuộc mà Chúa Kitô đã giành được. Thế giới, toàn thể nhân loại, các quốc gia và mọi cá nhân được dâng hiến cho Trái Tim Chúa Cứu Thế, Trái Tim đã bị đâm thủng trên thánh giá.

10. Lời Đức Mẹ kêu gọi trong thông điệp Fátima bắt nguồn rất sâu trong Phúc Âm và truyền thống, Giáo Hội cảm thấy thông điệp đó đặt Mẹ vào trường hợp phải ra tay cứu giúp.

Đức Mẹ đã đáp ứng qua tôi tớ của Thiên Chúa là Đức Piô XII (ngày tấn phong chức vụ chủ chăn của ngài đã xảy ra đúng ngày 13 tháng Năm, 1917). Đức Piô XII đã dâng hiến loài người và cách riêng dân tộc Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria (nhấn mạnh). Không phải Đức Piô XII dâng hiến đáp ứng cách hùng hồn lời kêu gọi của Mẹ Maria tại Fátima đó sao?

Trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) và Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium Et Spes), Công Đồng Vatican II minh họa những lý do liên hệ giữa Giáo Hội và thế giới. Hơn nữa, giáo huấn của Giáo Hội về địa vị đặc biệt của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội dẫn đến việc Đức Phaolô VI xưng tụng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Và do đó chỉ rõ cách sâu sắc hơn bản chất việc Mẹ Maria kết hiệp với Giáo Hội và sự lo lắng ân cần săn sóc Mẹ dành cho thế giới, cho nhân loại, cho từng cá nhân và mọi quốc gia. Đặc tính những việc đó biểu thị ở chức năng hiền mẫu của Mẹ.

Sự kiện trên đem lại việc tìm hiểu sâu xa và thấu đáo hơn ý nghĩa hành động hiến dâng mà Giáo Hội được kêu gọi thực hiện nhờ sự trợ giúp của Trái Tim Mẹ Chúa Kitô và Mẹ chúng ta.

11. Hôm nay, Gioan Phaolô II, kế vị Thánh Phêrô, nối tiếp công việc các Đức Piô (XII), Gioan (XXIII) và Phaolô (VI), và đặc biệt là thừa kế Công Đồng Vatican, chính mình ở trước mặt Mẹ của Con Thiên Chúa tại linh địa của Người tại Fátima này. Gioan Phaolô II đến đây với tư cách nào?

Chính Gioan Phaolô II trình diện trước mặt Mẹ Thiên Chúa, xúc động nhắc lại những lời Mẹ hiền kêu gọi thống hối, cải đổi, lời kêu gọi mãnh liệt của Trái Tim Mẹ Maria đã vang lên tại Fátima này sáu mươi lăm năm trước. Đúng vậy, Gioan Phaolo II nhắc lại thông điệp đó mà tim rung động, vì thấy bao nhiêu người và xã hội cũng như biết bao Kitô hữu đi ngược với đường lối Mẹ đã chỉ dạy trong thông điệp Fátima. Vì tội lỗi đã bám chặt vào thế giới, việc chối bỏ Thiên Chúa đã được phổ biến trong các ý thức hệ, các quan niệm và kế hoạch của nhân loại.

Nhưng chính vì lý do này mà lời kêu gọi phù hợp với Phúc Âm là ăn năn thống hối và cải đổi đời sống vẫn còn mãi mãi thích hợp. Lời kêu gọi đó còn khẩn cấp hơn nữa. Và lời kêu gọi đó sẽ phải là đề tài cho Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm tới (1983) chúng ta đã liên tiếp chuẩn bị.

Chính người kế vị Thánh Phêrô có mặt tại đây cũng được coi là một chứng nhân đối với nỗi thống khổ lớn lao vô bờ của nhân loại. Một chứng nhân đối với những âm mưu đã được mạc khải đang hiện ra lờ mờ bao trùm các quốc gia và toàn thể nhân loại. Cha nỗ lực ôm gọn những đau khổ này với trái tim yếu đuối con người của mình khi chính mình đứng trước sự huyền nhiệm của Trái Tim Đấng Từ Mẫu, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria.

Nhân danh những thống khổ này và ý thức những sự dữ đang lan tràn khắp thế giới và âm mưu lôi kéo mọi cá nhân, mọi quốc gia và cả nhân loại, người kế vị Thánh Phêrô có mặt tại đây với niềm hy vọng lớn lao hơn vào việc cứu vớt thế giới, vào lòng yêu thương cứu độ mà tình yêu này luôn luôn mạnh mẽ hơn, luôn luôn quyền uy hơn tất cả mọi sự dữ.

Trái tim cha bị đè nặng khi cha thấy tội lỗi thế giới và toàn bộ những âm mưu quy mô tụ tập lại như đám mây đen phủ trên nhân loại. Nhưng trái tim cha cũng reo mừng hy vọng khi một lần nữa cha thi hành việc mà các vị tiền nhiệm của cha đã làm là đặc biệt dâng hiến cho Trái Tim Mẹ những dân tộc phải được dâng hiến cách riêng. Làm việc này có nghĩa là hiến dâng cho Chúa, Đấng là sự thánh thiện vô cùng. Sự thánh thiện này có nghĩa là ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc cho biết tình yêu mạnh mẽ hơn sự dữ. Không một “tội lỗi nào của thế giới” có thể thắng được tình yêu này.

Một lần nữa việc dâng hiến được thực hiện. Lời Mẹ Maria kêu gọi không phải chỉ một lần. Lời Mẹ kêu gọi phải được thế hệ này đến thế hệ khác thi hành theo “những dấu chỉ thời đại” không ngừng đổi mới. Lời Mẹ kêu gọi phải luôn luôn được nhân loại hướng theo và thi hành. Việc dâng hiến phải được lặp đi lặp lại.

12. Tác giả Sách Khải Huyền đã nói: “Tôi cũng thấy một Jerusalem mới, thành thánh từ nơi Thiên Chúa ở trên trời mà xuống, xinh đẹp lộng lẫy như cô dâu sửa soạn để gặp đức lang quân.” Tôi nghe tiếng hô lớn từ ngai tòa vang lên: “Đây là nơi Thiên Chúa ở giữa loài người. Chúa ở với nhân loại, và nhân loại sẽ là dân của Chúa, và Ngài sẽ là Thiên Chúa của chúng, Ngài luôn luôn ở với nhân loại” (Khải Huyền 21:2-3).

Đây là điều Giáo Hội tin.

Đây là đức tin và với đức tin này dân Chúa lên đường lữ hành.

Trong thánh điện đó là trái tim của cô dâu và của người mẹ, Mẹ Maria, một trái tim được trang sức bằng ơn Bẩm Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. Ở tại chân thánh giá Chúa Giêsu Con của Mẹ, trái tim cô dâu và cũng là trái tim của Mẹ Maria đã nở ra một tình yêu vĩ đại đối với loài người và thế giới. Trái tim của cô dâu và cũng là của Mẹ biết hết những đau khổ của mọi cá nhân và xã hội trên mặt đất.

Dân Chúa là đoàn lữ hành đi những đoạn đường trần thế về hướng thế mạt. Đoàn lữ hành này đang đi đường về Jerusalem đời đời, về “nơi Chúa ở với loài người.”

Tại đó Chúa sẽ “lau khô những giọt lệ nơi mắt mọi người dân Chúa, vì thế giới cũ đã qua, đã hết rồi” (Khải Huyền 21:4).

Nhưng bây giờ “thế giới” vẫn còn tồn tại. Thế giới cũ này là nơi tạm trú trong cuộc hành hương của chúng ta.

Vì lý do đó chúng ta hướng nhìn về Đấng ngự trên ngai và Ngài nói ... “Nhìn đây, Ta tạo dựng mọi sự mới!” (Khải Huyền 21:5).

Và cùng với vị Tông Đồ Thánh Sử, chúng ta cố gắng nhìn với cặp mắt đức tin “trời mới và đất mới”; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã qua rồi.

Nhưng “trời thứ nhất và đất thứ nhất” vẫn còn tồn tại chung quanh và trong chúng ta. Chúng ta không thể coi nó như không có. Nhưng trời đất cũ này giúp chúng ta nhận ra hồng ân bao la Chúa đã hứa ban cho nhân loại lúc còn trên đường lữ hành và thấy được “dấu chỉ vĩ đại trên bầu trời, một vị phụ nữ” (tc. Khải Huyền 12:1) bừng sáng lên nơi chân trời đức tin của thời đại chúng ta.

Đúng vậy, chúng ta có thể nhắc lại “Hỡi ái nữ, người được Thiên Chúa Tối Cao chúc phúc hơn mọi phụ nữ trần thế ... Ngẩng đầu cao bước đi trước mặt Thiên Chúa chúng tôi ... Bà đã ngăn chặn tai họa cho chúng tôi.”

Thực vậy, Bà được chúc phúc.

Đúng vậy, tại đây và khắp Giáo Hội, trong trái tim từng người và toàn thế giới vang lên lời chúc tụng Mẹ: Lạy Mẹ Maria, Mẹ hiền dịu của chúng con.