Nhảy đến nội dung

00 Lời Tựa

  • CN, 19/01/2025 - 18:08
  • admin1

Lời Tựa

“Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha, (Đấng) Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật, hữu hình và vô hình.”

Những bài giáo lý căn cứ theo Kinh Tin Kính, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trình bày tại các buổi gặp chung hằng tuần từ năm 1985 đến 1991, được xuất bản thành ba tập. Hướng vào Thiên Chúa Ba Ngôi, những bài giáo lý này nói về Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Tập I giới hạn theo lời tuyên tín thứ nhất của Kinh Tinh Kính Nicene tuyên xưng trên đây.

Tại sao Đức Giáo Hoàng quyết định triển khai giáo lý theo Kinh Tin Kính? Từ sau khi Sách Giáo Lý Giáo Hội Roma công bố lần đầu tiên năm 1566, nhiều đề nghị khác nữa về giáo lý chung cho Giáo Hội hoàn vũ đã từng được đưa ra để yêu cầu chấp thuận, nhưng không kết quả. Đề nghị này lại xuất hiện tại Công Đồng Vatican II. Đề nghị còn được nhắc lại tại các Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1974 và 1977 để phản đáp sách giáo lý (tiếng) Hòa Lan năm 1966. Quan tâm tới những phân hóa trong Giáo Hội về môn sư phạm giáo lý, Đức Gioan Phaolô II phổ biến cuốn Dạy Giáo Lý trong Thời Đại Chúng Ta (Catechesis in Our Time) của ngài năm 1979. Câu hỏi được đặt ra là: có liên quan gì giữa lời giới thiệu sách giáo lý do Thượng Hội Đồng Giám Mục Khóa Ngoại Lệ tháng 12 năm 1985 đưa ra và sách giáo lý theo Kinh Tin Kính của Đức Gioan Phaolô II bắt đầu từ tháng 1 cũng năm đó không? Đức Giáo Hoàng đã chuẩn thuận lời giới thiệu Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo và sách đó đã được ấn hành năm 1992. Ba bộ sưu tập các bài giảng của Đức Gioan Phaolô II về Kinh Tin Kính tương ứng với Phần Một của bộ sách giáo lý năm 1992. Dù có công việc bề bộn, Đức Gioan Phaolô II vẫn dành những buổi tiếp kiến chung hằng tuần từ tháng Giêng 1985 tới tháng Tám 1986 để giải thích lời tuyên tín thứ nhất trong Kinh Tin Kính (theo Công Đồng) Nicene.

Thật là một đặc ân cao cả khi “lắng nghe” lời Vị Đại Diện Chúa Kitô về những vấn đề quan trọng sinh tử đối với đời sống nhân loại và Kitô hữu. Đức tin trở nên sống động và ý niệm đời sống vĩnh cửu mang lại sinh lực mới, không chỉ là “tính bất tử” mà là chính sự sống của Thiên Chúa Đấng hằng hữu. Nhờ chịu Phép Rửa, chúng ta mới biết sống trong nhận thức và yêu mến Thiên Chúa -  theo tâm tình của con cái mà Ngài thừa nhận vào gia đình.

Đức Gioan Phaolô II nói theo thẩm quyền Vị Đại Diện Chúa Kitô và với tinh thần quán triệt thông điệp của Thiên Chúa. Ngài có thể truyền thông lời Chúa vì ngài biết tâm thức nhân loại ngày nay.

Các học giả sẽ cảm kích sự thông suốt hài hòa của Đức Giáo Hoàng chúng ta về Sách Thánh và các công đồng danh tiếng, cũng như sự hiểu biết tiên khởi (trực giác) của Aristotle và Thomas (St. Thomas Aquinas) đặt nền tảng tri thức cho thế kỷ 20. Thế nhưng, người khác sẽ không mất hứng thú vì những ý niệm khó hiểu hoặc biệt ngữ chuyên môn. Họ sẽ được thỏa mãn với những vấn nạn trong tâm trí. Hiển nhiên nhờ mạc khải của Thiên Chúa, Đức Gioan Phaolô II trang trọng và hân hoan đề cập đến những lời giải đáp của Thiên Chúa trong tâm trạng mọi người về các vấn đề và vấn nạn được nhìn qua lăng kính hiện đại.   

Trong bốn buổi thuyết giảng mở đầu, Đức Giáo Hoàng đề cập tới những người giảng dạy giáo lý, về sứ mệnh, nhu cầu đức tin và chuẩn bị đầy đủ cho sứ mệnh thánh thiêng của các vị này. Người đọc sẽ cảm kích sự sâu sắc của Đức Giáo Hoàng về những phương pháp giảng dạy, ưu việt về đức tin, và việc truyền bá giáo lý trong ánh sáng “liên kết bất khả ly giữa Sách Thánh, Truyền Thống, và Huấn Quyền.” Ngoài ra người đọc sẽ thấy được soi sáng và cảm hứng ý nghĩa lời tuyên xưng “Tôi tin”.

Trước khi Đức Gioan Phaolô II đi sâu vào chi tiết lời tuyên tín vào Thiên Chúa là Cha Toàn Năng và là Đấng Tạo Thành, ngài khai triển “mối liên kết chính và phụ giữa lời người Kitô hữu tuyên xưng: 'Tôi tin' và 'mạc khải', lời khởi xướng đặc biệt của chính Thiên Chúa.” Đức Gioan Phaolô II đề cập tới các địa hạt: kho tàng đức tin (Sách Thánh và Truyền Thống), ơn linh ứng, mối liên quan với các tôn giáo khác, vấn đề những người không tin và người vô thần.

Sau khi giải thích “Mạc Khải và Đức Tin” là phần thứ nhất trong sáu chủ đề chính, ngài dẫn người nghe sang chủ đề chính thứ hai là “Sự Hiện Hữu và Bản Tính Thiên Chúa.” Khởi đi từ nhân loại khát vọng Thiên Chúa, Đức Gioan Phaolô II lược đồ hóa những bằng chứng truyền thống về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Sau khi làm sinh động các bằng chứng truyền thống, ngài giải thích Thiên Chúa tự biểu hiện (mình) là Thiên Chúa hữu ngã như thế nào: Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob, Moses, các ngôn sứ; Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cách rõ ràng trong Chúa Giêsu Kitô. Sách Thánh mạc khải Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa hằng hữu, linh thiêng, vô cùng và vô hình, là Thiên Chúa Cha toàn năng và là Thiên Chúa của giao ước: Thiên Chúa là Tình Yêu.

Kitô hữu biết Thiên Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Trong phần thứ ba này Đức Gioan Phaolô II mở tung cho thấy kho tàng Sách Thánh và Giáo Hội làm sáng tỏ mạc khải Chúa Ba Ngôi. Người nghe chứng nghiệm được trạng thái huyền nhiệm lạ lùng; giáo thuyết rất quen thuộc và cách trình bày mầu nhiệm rất lôi cuốn trào dâng trong lòng người nghe niềm hân hoan hạnh phúc dạt dào. Sau cùng, không phải đây là điều nói về số phận đời đời của chúng ta là biết và yêu mến Tam Vị Nhất Thể Thiên Chúa hay sao?

Có bao giờ bạn tự hỏi, “Tôi, chúng ta, mọi sự vật từ đâu tới” hay không?  “Chúng ta sẽ đi đâu?” “Ý nghĩa cuộc đời là gì?” Bây giờ chúng ta ở đây do tình cờ, do định mệnh, hoặc tất cả đều do Thiên Chúa an bài?” Nếu do Thiên Chúa, thì tại sao lại có quá nhiều sự dữ và đau khổ như thế này?” Để giải đáp những vấn nạn trên, trong phần thứ bốn Đức Gioan Phaolô II hướng về Thiên Chúa Đấng Tạo Thành. Thiên Chúa chúng ta, Tam Vị Nhất Thể Thiên Chúa, tự hiển lộ chính Ngài là Đấng Tạo Hóa và là Đấng Từ Phụ. Đức Gioan Phaolô II thấu triệt các văn bản Cựu và Tân Ước, các văn bản công đồng và giáo huấn chung của Giáo Hội với những sâu sắc của các thần học gia và các nhà tư tưởng Kitô hữu (giáo) khi ngài trình bày những điều Kitô hữu chúng ta tin theo.

Muôn loài được tạo thành vì vinh quang Thiên Chúa. Đúng vậy, nhưng các thụ tạo có quyền tự lập riêng chính đáng của nó. Có lẽ sự phân biệt các sự kiện kể trên chỉ xảy ra trong thời đại này. Cũng chính vì lý do này tác giả xem xét những mối bận tâm khác trong thời hiện đại, chẳng hạn như vấn đề nhân phẩm và bình đẳng nam nữ, sứ mệnh có tính cách giao ước của họ khuất phục vũ trụ, (chứ không hủy hoại nó), các nhân quyền dựa trên căn bản được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

Nhu cầu và ơn đức tin cũng trình bày sâu sắc tập trung trong phần kế tiếp: “Ơn Thiên Chúa Quan Phòng.” Những nghi vấn sinh tử  ẩn trong tim chúng ta: “Thiên Chúa có ở với chúng ta không?” “Thiên Chúa có để ý gì đến mọi điều xảy ra không?” “Tại sao có quá nhiều đau khổ và sự dữ?” “Nếu Thiên Chúa bảo đảm an bài việc phát triển của nhân loại, thì chúng ta có tự do không?” Vì Đức Gioan Phaolô II trực diện những nghi vấn của chúng ta và ngài hiểu rõ ý nghĩa cốt tủy những vấn đề “(ở ranh giới) khít khao đường tơ kẽ tóc giữa hy vọng và thất vọng,” người đọc cùng chia sẻ niềm kiên tín của ngài, “Không khi nào lời Thiên Chúa mang tính cách vĩ đại và hấp dẫn cho bằng khi trực diện những đòi hỏi to lớn nhất của con người.” Nhờ Đức Gioan Phaolô II đương đầu cách khả tín nhưng khiêm tốn với những vấn đề phức tạp này, người đọc sẽ thấy chấp nhận được những giải đáp ngài đưa ra về toàn thể đức tin của chúng ta. Thiên Chúa, Đấng toàn tri, hằng ở cùng chúng ta và biến sự dữ ra điều tốt lành. Mọi sự sẽ được phục hồi trong Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta.    

Trong phần sau chót về “Các Thiên Thần,” Đức Giáo Hoàng kết luận những giáo huấn về lời tuyên xưng thứ nhất trong Kinh Tin Kính Nicene: “Đấng tạo thành muôn loài, hữu hình và vô hình.” Đức Gioan Phaolô II đối diện thách đố của những người theo thuyết duy vật và thuần lý, những người này chối bỏ điều khả dĩ về các thiên thần. Ngay cả đến một số Kitô hữu ngày nay cho rằng nói về các thiên thần là “lỗi thời” và “ít cần thiết.” Đức Giáo Hoàng biết ngài phải chuyển trao tuyệt đối trọn vẹn toàn thể mạc khải của Thiên Chúa. Mặc dầu sự thật về các thiên thần rõ ràng không phải là nội dung chính yếu lời Thiên Chúa (Chúa Giêsu Kitô mới là chính yếu), dù sao “Nếu người ta muốn loại bỏ các thiên thần, người ta cần phải duyệt lại tận gốc chính Sách Thánh, và cùng với Sách Thánh, toàn thể ơn cứu độ.” Đức Gioan Phaolô II đề cập những điều Giáo Hội dạy về các thiên thần, về cuộc chiến giữa Satan và Chúa Kitô, và những gì sẽ xảy ra khi Chúa Giêsu Kitô quang lâm.

Chúng tôi cám ơn quí Nữ Tu dòng thánh Phaolô đã phát hành tập sách này và chờ đợi những tập được hứa.

Joseph H. Casey, SJ

Boston College

***************************************

GHI CHÚ

Những chữ viết tắt  tên các văn kiện dùng trong sách này:
 

DH  Dignitatis Humanae

       (Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo)

DV  Dei Verbum

      (Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa)

GS  Gaudium et Spes

      (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới  Ngày Nay)                                        

LG   Lumen Gentium

      (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội)

NA   Nostra Aetate

      (Tuyên Ngôn về Liên Lạc của Giáo Hội

       với các Tôn Giáo ngoài Kitô Giáo)

UR   Unitatis Redintegratio

      (Sắc Lệnh về Hiệp Nhất)                                          

DS  những trích dẫn của Denzinger-Schonmetzer

2. Số thứ tự:

Nguyên bản không ghi số thứ tự các chủ đề và tiểu đề, chúng tôi mạn phép ghi số thứ tự để dễ theo dõi, thí dụ:

Phần I. Giáo Lý Truyền Trao Toàn Vẹn Mạc Khải

(“Phần I” được thêm vào để ghi số thứ tự chủ đề)

   1. ”Giáo Lý Viên phải trung thành với sự toàn vẹn của Chân Lý Mạc Khải” (số “1.” được thêm vào để ghi số tiểu đề).

3.  Nhân xưng đại từ:

- Ngài, viết hoa, khi nói về Thiên Chúa (Ba Ngôi),     Chúa Cứu Thế, Chúa Thánh Linh;

- Người, viết hoa, khi nói về Đức Maria.

4.  Danh xưng đại từ về Đức Gioan Phaolô II, tác giả những bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi:

“Chúng ta”  khi ĐTC dùng “We”,

“ Cha” hoặc “cha” khi ĐTC dùng “I” và “My” trong bản Anh ngữ.

5. “Buổi Gặp Chung” thay vì “Buổi Triều Yết Chung”.

6. Những trích dẫn Phúc Âm hoặc Thánh Thư (nguyên văn, đôi khi không nguyên văn) được trình bày bằng chữ nghiêng, thí dụ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:22).

7. Những chữ viết tắt:

       a) “Jn” Tên của Thánh Sử Gioan viết tắt theo cách dùng trong các Sách Phúc Âm bằng Anh ngữ là “Jn” thay vì “Gn” hoặc “Ga” như thí dụ ở trên.

      b) “tc.” Ghi chú xuất xứ dẫn chiếu mà không nguyên văn là “tc.” có nghĩa: “tham chiếu, so với, đối chiếu, tham khảo, xin đọc, phỏng theo, v.v.” để chuyển “cf. = confer (Latin), compare (English)”, thí dụ:  ... - Đức Maria thụ thai Chúa Giêsu do việc làm của Chúa Thánh Linh (tc. Lk 1:35; Mt 1:18) từ  ... – Mary who conceived Jesus by the action of the Holy Spirit (cf. Lk 1:35; Mt 1:18).

8.  Phúc Âm và Sách Thánh, tất cả các từ ngữ về Phúc Âm và Sách Thánh đều ghi là Phúc Âm hoặc Sách Thánh  (viết chữ hoa) không phân biệt danh từ hoặc tĩnh từ.

9. Một số danh xưng khác

   Tên riêng cá nhân, cộng đoàn (nói về tín hữu) hoặc địa danh vốn quen theo lối viết quen thuộc trong các Sách Phúc Âm và Phụng Vụ tiếng Việt (phiên âm) như: Phêrô, Phaolô, Luca, Gioan, v.v.

Tên quốc gia, địa danh hoặc người ta như: Israel hoặc Do Thái, Roma hoặc Lamã, Hy Lạp, v.v.

Ngoài ra, chúng tôi dùng cách viết danh xưng và địa danh theo bản Anh ngữ.