07 Chương 7
Chương 7.
Chúa Giêsu Là Sự Hoàn Thành Vĩnh Viễn Mạc Khải của Thiên Chúa
Đức tin, gồm trong lời tuyên xưng “Tôi tin,” có liên quan mật thiết với mạc khải. Biểu lộ “lòng tin phục phó thác cho Thiên Chúa” là cách nhân loại đáp ứng kỳ vọng Thiên Chúa mạc khải “chính Ngài” và đồng thời Ngài tiết lộ cho biết thánh ý huyền nhiệm về công cuộc cứu độ nhân loại đời đời qua “việc chia sẻ căn tính thần linh.” Đức tin là lý trí và ý chí tuân phục Thiên Chúa, Đấng mạc khải; vì nói cho cùng sự tuân phục này cốt ở việc chấp nhận điều Thiên Chúa mạc khải “là chân thật.” Chỉ khi nào con người hòa hợp lý luận tự nhiên của mình vào việc chấp nhận nội dung mạc khải, thì qua đức tin, con người mới hoàn toàn phục tòng Thiên Chúa, Đấng mạc khải chính Ngài cho con người – bởi thế, khi nhận được ân sủng “của Thượng Đế,” con người phải dâng lên Ngài lễ vật căn tính của mình. Lẽ giản dị là nhờ lý trí và ý chí con người phục tòng Thiên Chúa thì Ngài xuất hiện để khởi nguyên cho thế giới loài người dưới một hình thái hiện hữu mới liên quan với Thiên Chúa.
Cả mạc khải lẫn đức tin đều “vượt xa” con người và mở cho con người những khái niệm siêu nhiên. Bởi lẽ những khái niệm này chuyên chở sự thỏa mãn sâu xa nhất cho những khát vọng và ước muốn hợp với căn tính thuộc bản chất tinh thần con người: chân lý, sự tốt lành, yêu thương, vui mừng và hòa bình. Thánh Augustine mô tả thực trạng này bằng câu nói thời danh: “Trái tim chúng con bồn chồn cho tới khi chúng an nghỉ trong Chúa” (St. Augustine, Confessions, I, 1). Cũng tương tự như thánh Augustine, Thánh Thomas nêu lên những câu hỏi tiên quyết của phần II tác phẩm Summa Theologica (Tổng Luận Thần Học) để chứng minh ý thức đầy đủ về sự toàn hảo của con người, bởi lẽ rằng số phận của con người chỉ được tìm thấy trong việc nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Vì lý do này thiên khải giao thoa với khả năng siêu việt của tinh thần nhân loại rộng mở để đón nhận Lời Thiên Chúa trong đức tin.
Thiên Chúa dần dà nói về chính Ngài
Hiến Chế Dei Verbum ghi nhận “nhiệm cuộc mạc khải” đã phát triển ngay từ khởi đầu lịch sử nhân loại. “Người ta nhận biết đức tin qua sự kết hợp mật thiết giữa ngôn từ và hành động. Nên các việc Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử cứu độ bày tỏ và xác quyết giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn ngôn từ công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong các hành động này” (DV 2). Chúng ta có thể nói chương trình mạc khải hàm chứa “môn giáo khoa thần linh” đặc biệt. Thiên Chúa dần dà “nói về chính Ngài” và dẫn đưa nhân loại từng bước từng bước tới “việc tự khải” siêu nhiên của Thiên Chúa, hướng thẳng tới thượng đỉnh là Chúa Giêsu Kitô.
Đồng thời, chúng ta cũng có thể nhìn nhận toàn thể nhiệm cuộc mạc khải là lịch sử ơn cứu độ. Tiến trình này ngấm vào lịch sử nhân loại thuở nguyên sơ. “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài (tc. Jn 1:3) và gìn giữ muôn loài tồn tại nhờ Ngôi Lời, ban cho nhân loại bằng chứng không thể chối cãi về chính Ngài nơi các thụ tạo hữu hình (tc. Rom 1:19-20). Để cho nhân loại thấy con đường cứu độ tuyệt vời, Thiên Chúa đã đi xa hơn nữa và từ khởi đầu chính Ngài đã hiện ra với nguyên tổ” (DV 3).
Ngay từ khởi thủy, “các thụ tạo hữu hình là bằng chứng” để nói với nhân loại và hướng trí khôn nhân loại về Đấng Tạo Hóa vô hình, cũng từ đó hằng tiếp diễn việc Thiên Chúa tự khải và đòi nhân loại đáp ứng thích hợp bằng lời tuyên xưng “Tôi tin.” Việc mạc khải này không bị gián đoạn vì tội nguyên tổ. Thực vậy “sau khi nguyên tổ lỗi phạm; qua lời hứa ơn cứu chuộc, Thiên Chúa khơi dậy trong lòng nguyên tổ hy vọng được cứu độ (tc. St 3:15). Và từ đó trở đi Ngài luôn luôn bảo vệ nuôi dưỡng nhân loại, ban sự sống đời đời cho những người kiên trì tìm kiếm ơn cứu độ (tc. Rom 2:6-7). Khi tới thời điểm đã định, Ngài kêu gọi ông Abraham, để từ ông Ngài tạo lập một dân tộc lớn (tc. St 12:2). Qua các tổ phụ, và sau các ngài như ông Moses và các ngôn sứ, Thiên Chúa dạy cho dân tộc này nhận biết Ngài là Thiên Chúa hằng sống duy nhất, chân thật và là Đấng Từ Phụ quan phòng, Đấng Thẩm Phán chí công và truyền dạy họ đợi chờ Đấng Cứu Thế được hứa ban. Từ các phương pháp nói trên, Ngài dọn đường cho Phúc Âm qua bao thế kỷ” (DV 3).
Đức tin là lời nhân loại đáp ứng thiên khải đi vào giai đoạn quyết định với việc Chúa Cứu Thế đến “trong thời đại sau cùng này,” Thiên Chúa “nói với chúng ta qua Con của Ngài” (Dt 1:1-2).
Vì thế, “Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời làm người, đã được phái đi nhân danh là ‘một con người đến với nhân loại.’ Ngài ‘truyền lại lời Thiên Chúa’ (Jn 3:34) và hoàn tất công cuộc cứu độ mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài thi hành (tc. Jn 5:36; 17:4). Thấy Chúa Giêsu là thấy Thiên Chúa Cha của Ngài (Jn 14:9). Vì lý do này Chúa Giêsu đã hoàn hảo mạc khải và thi hành trọn vẹn mạc khải qua toàn thể công việc Ngài làm để chứng tỏ sự hiện diện và hiển lộ chính Ngài: bằng ngôn từ, hành động, dấu chỉ và phép lạ, nhưng sự kiện quan trọng nhất là cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển từ cõi chết của Ngài, và sau cùng Ngài đã gửi Thánh Linh chân lý đến. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn minh xác điều mà mạc khải loan báo qua bằng chứng thần linh; nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối của tội lỗi và sự chết, và phục sinh chúng ta để được sống vĩnh cửu” (DV 4).
Theo tâm cảm của Kitô Giáo, “Tôi tin” nghĩa là chấp nhận và đáp lại việc Thiên Chúa tự khải một cách vĩnh viễn trong Chúa Giêsu Kitô bằng hành động “hoàn toàn quy phục Thiên Chúa.” Bởi lẽ chính Chúa Kitô là nền tảng việc hoàn toàn quy phục này, là đền thờ sống động và là trung gian cứu độ.
Như thế đức tin bao gồm việc chấp nhận toàn thể “công cuộc cứu độ của Chúa Kitô” là giao ước mới và vĩnh cửu “không bao giờ mai một.” Công Đồng minh định: “Chúng ta không đợi chờ thêm một mạc khải chung nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến trong vinh quang” (DV 4).
Vì thế trong Hiến Chế Dei Verbum, Công Đồng minh định cách súc tích và đầy đủ toàn thể “giáo khoa” về mạc khải thần linh, đồng thời cũng xác định cho chúng ta biết đức tin là gì. Công Đồng cũng dẫn giải “tin” nghĩa là gì, và nhấn mạnh đến “đức tin Kitô hữu.” Như vậy cũng là để đáp lại lời kêu gọi của chính Chúa Giêsu: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Jn 14:1).
Buổi gặp chung ngày 3 tháng Tư, 1985