Nhảy đến nội dung

03 Chương3

  • CN, 19/01/2025 - 18:11
  • admin1

Chương3.  

Hành Trang Tín Lý Cần Thiết cho Người Dạy Giáo Lý

     Nghĩa vụ huấn giáo cho thấy Giáo Hội cần phải tích cực đào luyện người dạy giáo lý. Lần  nữa, gương Chúa Kitô soi sáng chúng ta. Trong sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu tận tụy đào luyện những người sẽ rao giảng sứ điệp của Ngài khắp thế giới. Chúa dành nhiều thì giờ giảng dạy dân chúng, nhưng Ngài dành nhiều hơn cho việc huấn luyện các môn đệ. Chúa giữ các ông ở bên để khắc sâu vào tâm trí các ông những chân lý trong sứ điệp của Ngài. Chúa đã dạy các môn đệ không phải chỉ bằng ngôn từ, mà bằng hành động biểu thị và trong những tiếp xúc hằng ngày của Ngài. Chúa cho các môn đệ biết huyền nhiệm về vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đưa các ông vào mầu nhiệm Thiên Chúa, Ngài là mạc khải của Thiên Chúa. Ngài khơi dậy niềm tin trong các môn đệ và từ từ biểu hiện bằng những huấn thị cặn kẽ hơn nữa. Ngài đã trang bị cho các ông hành trình giáo thuyết khi ký thác cho các ông sứ mệnh giảng dạy muôn dân. Nhưng các ông chỉ hiểu trọn vẹn giáo thuyết Chúa Giêsu đã dạy khi Chúa Thánh Linh ban cho các ông sức mạnh thần linh của chức vị tông đồ.

Nhận được bài học từ Thầy của mình, Giáo Hội coi trọng đặc biệt việc đào tạo những người có nhiệm vụ giảng dạy chân lý mạc khải. Trước tiên là các mục tử, những người do chức linh mục đã nhận lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng nhân danh Chúa Kitô. Kế đến là tất cả những người khác chia sẻ sứ mệnh giảng dạy của Giáo Hội, đặc biệt là người dạy giáo lý, hoặc chuyên toàn thời gian hoặc tình nguyện. Đâu đâu cũng cần đào tạo người dạy giáo lý vì là một yếu tố căn cốt thiết yếu trong cam kết chung cho việc phát triển và sức sống Giáo Hội. Trên bình diện quốc gia việc đào tạo người dạy giáo ly mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng khi mà những vị này giữ vai trò then chốt trong các cộng đoàn Kitô hữu thiếu mục tử. Tại một số nơi có thể nói là Giáo Hội sống được nhờ công việc của người dạy giáo lý.

Người dạy giáo lý thường được đào tạo ở những học viện chuyên biệt. Viễn tượng của những học viện này là càng ngày càng đào tạo thêm nhiều người dạy giáo lý, tại đây họ thụ huấn về tín lý thiết yếu và phương pháp sư phạm.

Thục huấn giáo lý là nền tảng cần thiết, vì không phải việc dạy giáo lý chỉ là nói thuộc lòng. Nếu người dạy giáo lý không thấu triệt thì không thể chu toàn sứ mệnh khắc sâu vào tâm não người nghe toàn thể giáo lý Chúa Kitô. Người dạy giáo lý không phải chỉ làm chứng niềm tin của mình, mà họ phải truyền bá đức tin đó. Sự hiểu biết giáo lý học được khi chuẩn bị lãnh nhận Phép Rửa, Thêm Sức hoặc Rước Thánh Thể (Rước Lễ) lần đầu thường không đủ để có kiến thức về đức tin công chính và sâu xa cần thiết có thể truyền bá cho người khác. Việc học hỏi nghiên cứu có hệ thống là điều không thể thiếu. Đôi khi, nhiều trường hợp buộc người có trách nhiệm về dạy giáo lý nhờ đến sự cộng tác của những người thiện chí, nhưng những người này thiếu chuẩn bị đầy đủ. Để bảo đảm cho tương lai một nền huấn giáo vững chắc, việc dạy giáo lý cần phải được ký thác cho những người đã thấu triệt tín lý nhờ học hỏi nghiên cứu.

Công việc học hỏi giáo thuyết mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì những người dạy giáo lý sống trong một thế giới trà trộn đủ mọi khuynh hướng tư tưởng và học thuyết. Những tư tưởng và học thuyết này thường mâu thuẫn với sứ điệp Chúa Kitô. Người dạy giáo lý phải có khả năng phán đoán những điều họ thấy và nghe, suy xét phân biệt điều khả chấp và khả trừ. Nếu thấm nhuần giáo lý Chúa Kitô, họ sẽ có thể giảng dạy giáo lý một cách chính xác, mà vẫn duy trì được tinh thần cởi mở.

Việc thục huấn giáo thuyết đòi hỏi nỗ lực trí năng để thẩm thấu mạc khải, đồng thời việc học hỏi này phải song hành với (việc) đào sâu đức tin. Mục đích chính yếu của huấn giáo là truyền bá đức tin, vậy học hỏi nghiên cứu giáo lý phải là tiên quyết. Công trình học hỏi nghiên cứu nào đưa tới nghi vấn về đức tin hoặc những hoài nghi về chân lý mạc khải hẳn sẽ không phục vụ việc huấn giáo. Khai triển kiến thức về giáo lý phải trùng hợp với phát triển đức tin. Chính lý do này mà những học viện đào tạo người dạy giáo lý phải được coi quan trọng hơn cả vì là trường dạy đức tin.

Trách nhiệm của các giáo sư tại những học viện này còn quan trọng hơn nữa vì việc giảng dạy của họ sẽ có hậu quả gấp bội qua những người sẽ giảng dạy giáo lý mà họ đang đào tạo. Đức tin được biểu thị qua nhiệt tâm tự thân trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa đích thực của mạc khải.

Thêm vào đó, các học viện đào tạo người dạy giáo lý có trách nhiệm phát triển tinh thần truyền giáo nơi những người thụ huấn. Việc huấn giáo không nên coi như các hoạt động nghề nghiệp chuyên môn, vì huấn giáo hiện hữu với mục đích truyền bá sứ điệp Chúa Kitô trong thế giới. Đó cũng là lý do huấn giáo là ơn gọi và đồng thời là sứ mệnh. Vì huấn giáo là ơn gọi mà Chúa Kitô gửi tới những người muốn tận hiến cho sứ mệnh này. Sứ mệnh tiên khởi của Chúa Cứu Thế Phục Sinh trao cho Giáo Hội là huấn giáo trong lệnh truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân nước trở nên môn đệ” (Mt 28:19).  

Việc giảng dạy giáo lý Chúa Kitô không chỉ nhắm vào hiểu biết chân lý, mà nhắm vào truyền bá đức tin. Việc dạy giáo lý khơi dậy trong tâm trí lòng trung thành với Chúa Kitô và mở rộng cộng đoàn Kitô hữu. Thế nên việc huấn giáo cần phải thi hành như là sứ mệnh của Giáo Hội và vì Giáo Hội. Việc dạy giáo lý góp phần xây dựng, và sự trưởng thành trong đức tin và đức ái của Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô.

Ước vọng của tinh thần truyền giáo không phải chỉ nhắm vào những người đang rao giảng Tin Mừng, mà còn hướng tới những người đang giảng dạy giáo lý ở khắp mọi nơi. Tinh thần truyền giáo đòi hỏi người dạy giáo lý tận hiến ý lực và tài năng cho việc giảng dạy. Điều đó khiến những người dạy giáo lý biết rõ vai trò quan trọng trong công việc của họ và giúp họ có khả năng đương đầu những khó khăn với lòng kiên tín vững chắc hơn vào ân sủng nâng đỡ họ.

Chỉ có hoạt động như thế chúng ta mới hy vọng tăng tiến việc đào tạo người dạy giáo lý sẽ nuôi dưỡng việc phát triển Giáo Hội và đời sống Kitô hữu khắp nơi trong ý hướng của việc huấn giáo đặt trên căn bản niềm tin chân thành, sắt son.

Buổi gặp chung ngày 6 tháng Ba, 1985