04 Chương 4
Chương 4.
Ý nghĩa Đức Tin
Những lời tuyên tín được toàn thế giới biết về đức tin Kitô Giáo hình thành điểm dẫn chiếu căn bản đầu tiên cho việc huấn giáo ngày nay, và còn là “biểu tượng đức tin.” Từ ngữ symbolon tiếng Hy Lạp (Greek) có nghĩa là một nửa vật bẻ làm đôi (thí dụ như, một nửa con dấu, seal) và nửa này được đưa ra làm bằng chứng để nhìn nhận ra con dấu đó. Chỉ ghép hai mảnh lại đúng với nhau mới chứng tỏ được sở hữu chủ của con dấu. Ngoài biểu tượng nói trên người ta có thể sử dụng các bằng chứng như chứng minh thư, giao ước hoặc giao kèo, v.v. Ý nghĩa xác định biểu tượng do hai mảnh ghép lại của một vật hoặc văn kiện bị xé làm đôi hiển nhiên đã đủ rõ. Những thí dụ kể trên chứng tỏ rằng “các biểu tượng” là hình thức biểu thị những nguyên tắc chính yếu của đức tin – những điều Giáo Hội tin. Hệ thống huấn giáo bao gồm những huấn lệnh đức tin của Giáo Hội, nói cách khác, điều đó là nội dung đức tin Kitô Giáo. “Những biểu tượng đức tin” là những chứng điểm nền tảng đầu tiên trong việc huấn giáo.
Biểu tượng đức tin
Một trong vô số “biểu tượng đức tin” cổ đại, một trong những biểu tượng có thẩm quyền và cổ xưa nhất trên phương diện nguồn gốc, thường được tuyên tụng nhất trong số các “kinh nguyện Kitô Giáo” là Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ. Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ bao gồm các chân lý chính yếu của đức tin mà các thánh tông đồ Chúa Giêsu Kitô truyền lại. Một biểu tượng cổ xưa danh tiếng nữa là Kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan, cũng bao gồm các chân lý như Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ, được giải thích cách hữu quyền tại hai công đồng chung Giáo Hội hoàn vũ: Necaea (năm 325) và Constantinople (năm 381). “Các biểu tượng đức tin” truyền thống mà chúng ta tiếp tục dùng đến thế kỷ đương đại là kết quả của hai công đồng Giáo Hội nói trên. Sau Công Đồng Vatican II, năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Lời Tuyên Tín của Dân Thiên Chúa (Credo of the People of God). Lời tuyên tín này tổng hợp các chân lý đức tin của Giáo Hội và đề ra những nhận xét đặc biệt về giáo huấn mà Công Đồng vừa qua (CĐ Vatican II) đã mô tả, hoặc về một số hoài nghi xuất hiện trong những năm gần đây.
Biểu tượng đức tin là điểm dẫn chứng cốt yếu cho việc huấn giáo ngày nay. Tuy nhiên, những biểu tượng này trở lại kết tập “kho tàng Lời Thiên Chúa,” hợp thành do Sách Thánh và Truyền Thống tông đồ, và là một tóm lược súc tích về kho tàng đức tin. Vì thế, qua những lời tuyên xưng đức tin, chúng ta cũng đề nghị trở về với “kho tàng” bất di bất dịch này với giải dẫn mà Giáo Hội, được Chúa Thánh Linh hỗ trợ, đã đưa ra về kho tàng đức tin suốt mọi thế kỷ.
Ý nghĩa lời (Tại sao) “Tôi tin”
Mỗi “biểu tượng” đức tin đều bắt đầu bằng tuyên ngôn “Tôi tin.” Lời “Tôi tin” không những chỉ là dẫn nhập mà cũng là tuyên tín. Nội dung theo sau lời tuyên xưng này là chân lý đức tin Kitô Giáo. Tất cả các chân lý đều mở đầu bằng mệnh đề “Tôi tin.” Hôm nay, trong bài giáo lý thứ nhất, chúng ta muốn tập trung vào lời mở đầu “Tôi tin.”
Hình thức tuyên bố “Tôi tin” trong ngôn ngữ thông thường, không liên quan gì đến ý nghĩa tôn giáo, và đặc biệt là không một ý nghĩa nào theo Kitô Giáo. “Tôi tin anh” có nghĩa tôi tín nhiệm anh, và tôi tin anh nói thực. “Tôi tin điều anh nói” nghĩa là tôi tin nội dung anh diễn đạt đúng với sự thực.
Theo ngôn ngữ thông dụng hằng ngày của từ ngữ “tin,” một vài yếu tố căn cốt được làm sáng tỏ. Thí dụ như “tin” có nghĩa chấp nhận và nhận biết là đúng thực và phù hợp với thực tế nội dung điều được nói ra, tức là, nội dung những lời của một người (hoặc nhiều người khác) vì lý do uy tín của (những) người đó. Trong trường hợp này, sự khả tín xác định thẩm quyền đặc biệt của người đó – được gọi là “quyền sự thật.”
Như thế khi nói “Tôi tin,” chúng ta diễn đạt cùng một lúc hai hạn từ: nhân xưng đại danh tự “tôi” và động từ “tin” (về trưng dẫn – về con người và về sự thật); trường hợp này áp dụng cho những vị đạo cao đức trọng (con người và ngôn từ hợp nhất thành một, chẳng hạn như đối với những người có uy tín).
Nghĩa Lý Phúc Âm
Lời “Tôi tin” thường xuất hiện nơi các trang Sách Phúc Âm và toàn bộ Sách Thánh. Hiển nhiên là rất hữu ích nếu chúng ta so sánh và phân tích tất cả những điểm trong Cựu Ước và Tân Ước, thì chúng ta mới thấu đạt được ý nghĩa của động từ “tin” theo Phúc Âm. Từ động từ “tin” chúng ta cũng tìm thấy danh từ “đức tin” là cột trụ trong những hình thái diễn tả Phúc Âm, và là “định nghĩa” niềm tin, chẳng hạn, “Đức tin bảo đảm cho những điều chúng ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều chúng ta không thấy (fides est speran-darum substantia rerum et argumentum non appar-entium)” (Dt 11:1).
Những dữ kiện trong Phúc Âm đã từng được nghiên cứu, giải thích, và khai triển bởi các Giáo Phụ và các thần học gia suốt hai ngàn năm Kitô Giáo. Điều này được chứng thực qua khối lượng khổng lồ sách chú giải Thánh Kinh và giáo điều mà chúng ta có trong tay. Như thế trong các “biểu tượng,” cũng như trong thần học, động từ “tin” và danh từ “đức tin” là phạm trù nền tảng. Tin cũng là khởi điểm cho huấn giáo, như là hành động đầu tiên mà qua đó người ta đáp ứng mạc khải của Thiên Chúa.
Trong buổi gặp chung hôm nay chúng ta tự giới hạn chỉ nói về một chứng liệu căn nguyên, tuy nhiên, chứng liệu này bao gồm tất cả các chứng liệu khác. Chứng liệu này là Hiến Chế Dei Verbum (Hiến Chế Tín Lý về Thiên Khải) của Công Đồng Vatican II. Trong Hiến Chế này chúng ta đọc những lời sau đây:
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính Ngài và tỏ cho mọi người biết mục đích ẩn nhiệm của thánh ý Ngài (tc. Eph 1:9) mà (theo thánh ý ẩn nhiệm của Thiên Chúa) nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, nhân loại có thể đến được với Chúa Cha trong Chúa Thánh Linh và chia sẻ bản tính Thiên Chúa (tc. Eph 2:18; 2 Pet 1:4) ...” (DV 2).
“’Lòng tuân phục đức tin’ (Rom 16:26; tc. 1:5; 2 Cor 10:5-6) phải được dâng lên Thiên Chúa Đấng mạc khải, sở dĩ nhân loại phó thác tự ngã và dâng lên Thiên Chúa trí năng cùng ý chí cũng do lòng tuân phục này (Vatican I), cũng thế nhân loại tự do chấp nhận chân lý được Ngài mạc khải cho” (DV 5).
Những văn liệu trong Công Đồng bao hàm giải đáp cho nghi vấn “Tại sao tôi ‘Tin’?” Lời giải đáp ngắn gọn, nhưng nội dung là kho tàng vĩ đại. Kế tiếp chúng ta sẽ phải đào sâu thêm nữa lời giải thích của Công Đồng, được quan niệm về tầm quan trọng tương đương với điều gọi là định nghĩa có tính cách kỹ thuật.
Điều hiển nhiên là có một nối kết về nguồn gốc và có hệ thống giữa lời Kitô hữu chúng ta tuyên xưng “Tôi tin” với tiên đề đặc biệt của chính Thiên Chúa được gọi là mạc khải.
Thế nên việc huấn giáo trên căn bản lời tuyên xưng đức tin phải được đặt ra cùng với (việc) huấn giáo dựa theo thiên khải. Theo luận lý và lịch sử thì mạc khải đến trước đức tin. Đức tin được nuôi dưỡng bởi mạc khải. Tín ngưỡng của nhân loại là hình thái đáp lại mạc khải của Thiên Chúa.
Lời đáp ứng đối với Thiên Chúa, chúng ta phải đặt ra, vì Thiên Chúa phải được tin cậy. Không một ai xứng đáng như Ngài về phương diện thẩm quyền chân lý. Vì ngôn ngữ loài người quá phổ thông nên không có trường hợp nào khác khả dĩ minh xác giá trị về quan niệm trong từ ngữ “Tôi tin” và “Tôi tin anh” như là “tôi tin vào Thiên Chúa.”
Buổi gặp chung ngày 13 tháng Ba, 1985