Nhảy đến nội dung

15 Chương 15

  • T5, 23/01/2025 - 02:10
  • admin1

Chương15.

Vấn Đề Vô Tín Ngưỡng và Vô Thần

      

Theo quan điểm Kitô Giáo, tin có nghĩa là “chấp nhận lời mời gọi đối thoại với Thiên Chúa” bằng việc tận hiến phó thác nơi Đấng Tạo Thành. Niềm tin có ý thức này mở đường cho chúng ta “đàm luận về ơn cứu độ” mà Giáo Hội phải thể hiện đối với tất cả mọi người trong thế giới ngày nay (tc. Paul VI Encyclical Ecclesiam Suam, AAS 56 [1964], p. 654), cho dù cả với người vô tín ngưỡng. “Nhiều người đồng thời với chúng ta ... không bao giờ nhìn nhận mối liên kết mật thiết và sinh tử này với Thiên Chúa” (GS 19). Vì thế, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, Công Đồng Vatican II cũng công bố quan điểm về vấn đề vô tín ngưỡng và vô thần. Hiến chế cho biết niềm tin của chúng ta cần phải trưởng thành và có ý thức, một niềm tin đòi hỏi chúng ta là chứng nhân cho những người vô tín ngưỡng và vô thần. Trong thời đại hiện nay niềm tin của chúng ta phải được “tôi luyện kỹ càng để có thể nhận biết một cách rõ ràng và khắc phục những khó khăn” (GS 21). Đây là điều kiện căn cốt cho việc đàm luận về ơn cứu độ.

Sơ phác về học thuyết vô thần 

Hiến chế Gaudium et Spes đưa ra một phân tích khái lược nhưng có tính cách khảo cứu về chủ nghĩa vô thần. Điều tiên khởi là hiến chế quan tâm đến hạn từ vô thần “được áp dụng cho những hiện tượng hoàn toàn khác biệt nhau. Vì trong khi có một số người công khai khước từ Thiên Chúa (thuyết vô thần) [atheism], thì có những người khác lại tin rằng con người không thể tuyệt đối võ đoán điều gì về Ngài (thuyết bất khả tri) [agnosticism]. Còn những người khác sử dụng phương pháp khảo cứu vấn đề Thiên Chúa nên xem ra không đầy đủ ý nghĩa (thuyết duy thực nghiệm) [positivism], (chủ thuyết duy khoa học) [scientism]. Nhiều người lại vượt ra ngoài phạm vi khoa học một cách quá mức, cho rằng mọi sự đều có thể được giải thích chỉ bằng lý luận khoa học, hoặc bằng đối chiếu, tất cả những người này không thừa nhận một chân lý nào là tuyệt đối. Một số người đề cao con người một cách quá đáng đến độ niềm tin vào Thiên Chúa trở nên hầu như vô nghĩa, dẫu vậy những người này xem ra có vẻ nghiêng về đề cao con người hơn là chối bỏ Thiên Chúa. Lại có một số người, do sự tưởng tượng, tạo ra cho họ một ý tưởng lệch lạc về Thiên Chúa khiến họ vô phương hiểu được Thiên Chúa của Phúc Âm. Một số người không khi nào có ý thắc mắc về Thiên Chúa, vì họ không cảm thấy băn khoăn gì về đức tin; cũng chẳng thấy tại sao phải bận tâm về tôn giáo. Hơn nữa, chủ thuyết vô thần thường là kết quả của sự phản kháng mãnh liệt chống lại sự dữ trong thế giới này, hoặc do nhận định sai lầm cho rằng một số giá trị của loài người là tuyệt đối có thể thay thế chính Thiên Chúa. Nền văn minh hiện đại tự nó đôi khi cản trở việc đến với Thiên Chúa không phải vì một lý do nào khác mà chính vì nó quá bám víu vào các sự việc trần thế” (GS 19).

Thái độ thực tiễn

Như chúng ta thấy, Hiến chế Gaudium et Spes nêu lên tính cách đa dạng của những điểm trong hạn từ “chủ nghĩa vô thần.”

Hiển nhiên, chủ nghĩa vô thần thường là kết quả của thái độ thực tiễn, bất cẩn hoặc thiếu quan tâm đến các vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, thái độ này bắt nguồn trong tâm trí nhân loại, đặc biệt trong tư tưởng khoa học. Nếu chấp nhận nguồn gốc chính xác của suy tư là kinh nghiệm đích thực của giác quan, thì hóa ra các thực tại siêu vượt qua giác quan đều bị loại bỏ hay sao? Quan điểm nhận thức này được tìm thấy trên căn bản của ý niệm đặc biệt mà ngày nay chúng ta gọi là “môn thần học về cái chết của Thiên Chúa.”

Trong địa hạt suy tư trên bình diện lý thuyết căn bản, các động lực của chủ thuyết vô thần và nhất là thuyết bất khả tri ngày nay xem ra có vẻ thiếu thực tế.

Công đồng nhấn mạnh nhóm lý luận thứ hai được nối kết với nhóm chủ trương phóng đại việc tôn vinh con người khiến nhiều người quên đi sự thực hiển nhiên: con người chỉ là một hữu thể lệ thuộc và hữu hạn trong hiện sinh của mình. Thực tại cuộc đời và lịch sử nhắc chúng ta nhận định một lần nữa rằng cho dù những lý luận tồn tại để nhìn nhận phẩm giá cao cả và ưu vị của con người trong thế giới hữu hình, thì vẫn không có một căn bản nào để cho con người là tuyệt đối mà chối bỏ Thiên Chúa. 

Hiến Chế Gaudium et Spes chỉ dẫn cho chúng ta rằng: “chủ nghĩa vô thần hiện đại nhấn mạnh những khát vọng tự lập của con người tới mức độ phản kháng lại mọi sự lệ thuộc vào Thiên Chúa. Những người theo thuyết vô thần loại này duy trì ý tưởng rằng học thuyết đó đem lại tự do và là cứu cánh cho nhân loại, mà cũng chính con người tạo nên và điều khiển lịch sử của mình. Những người vô thần cho rằng sự tự do này không thể thỏa hiệp với việc xác minh Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và là cùng đích mọi sự, họ còn cho rằng sự minh xác như thế là thừa. Cổ võ cho chủ thuyết này là những người theo khuynh hướng kỹ thuật tân tiến” (GS 20). 

Ngày nay, hệ thống vô thần “tiên đoán việc giải phóng con người đặc biệt bằng việc giải phóng kinh tế và xã hội.” Chủ thuyết này có chương trình và kế hoạch chống lại tôn giáo “qua tuyên ngôn tôn giáo ngăn cản việc giải phóng con người vì gây ra cho con người niềm hy vọng hão huyền vào cuộc sống mai sau, nên quên lãng việc xây dựng xã hội trần thế.” Công Đồng cũng dạy “khi những người theo các quan điểm đó nắm quyền cai trị quốc gia, họ kịch liệt chống lại tôn giáo, dùng những phương tiện cưỡng bách có trong tay để truyền bá chủ nghĩa vô thần, đặc biệt là trong phạm vi giáo dục giới trẻ” (GS 20). Vấn đề này đòi hỏi phải đặt ra cách rõ ràng và chính xác nguyên tắc về tự do tôn giáo được nhấn mạnh trong Tuyên ngôn Dignitatis Humanae của Công Đồng Vatican II. 

Phi bác hoàn toàn 

Nếu chúng ta muốn trình bày rõ ràng quan điểm kiên định của Giáo Hội về chủ nghĩa vô thần, thì điều hiển nhiên là Giáo Hội “cương quyết” (GS 21) phi bác chủ thuyết vô thần, vì chủ thuyết đó trái nghịch với chính bản chất của đức tin Kitô Giáo về lòng kiên tín rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa có thể nhận biết được bằng lý trí. Tuy nhiên, “Trong khi hoàn toàn phi bác chủ thuyết vô thần, Giáo Hội thành thực tuyên bố: mọi người, dù tin hoặc không tin, cũng đều phải hoạt động xây dựng thế giới này, nơi mọi người đang chung sống, được hoàn hảo hơn; tuy nhiên điều đó không thể thực hiện được nếu thiếu đối thoại thành thực và khôn ngoan” (GS 21).

Cần phải nói thêm rằng Giáo Hội rất đau lòng về quan điểm của những người không thể dung hòa sự hiện hữu của Thiên Chúa với sự dữ và đau khổ chồng chất. Đồng thời Giáo Hội biết điều Giáo Hội loan báo: Phúc Âm và đức tin Kitô Giáo “phù hợp với những khát vọng thầm kín nhất của trái tim nhân loại khi Giáo Hội bênh vực thiên chức con người, khôi phục hy vọng cho những người thất vọng về điều cao hơn số phận của họ” (GS 21).

“Giáo Hội còn chỉ dạy thêm rằng niềm hy vọng liên quan đến thế mạt không giảm thiểu tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian, trái lại tạo thêm những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận đó. Vả lại, khi thiếu kiến thức về Thiên Chúa và thiếu hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu, phẩm giá con người bị tổn thương trầm trọng, như những biến cố hằng ngày thường chứng minh; không thể giải đáp những bí ẩn về sống và chết, về tội lỗi và đau khổ phiền muộn thì kết quả thông thường là con người sẽ rơi vào tuyệt vọng” (GS 21).

Trái lại, trong khi phi bác thuyết vô thần, Giáo Hội “cố gắng khám phá nơi tâm trí người vô thần những nguyên nhân thầm kín của việc chối từ Thiên Chúa. Giáo Hội ý thức tầm quan trọng của những vấn đề do thuyết vô thần khơi lên, tuy nhiên được thúc đẩy bởi lòng yêu thương mọi người, nên Giáo Hội tin những nghi vấn này cần phải cứu xét cặn kẽ và sâu xa hơn” (GS 21). Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới “được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, Đấng luôn luôn canh tân và thanh tẩy Giáo Hội” (GS 21), để tẩy sạch bất cứ điều gì có thể làm tổn thương cách bất công cho những người không tin.

Giáo Hội đáp ứng      

Đề cập đến các vấn đề vô tín ngưỡng và vô thần như thế, một lần nữa Giáo Hội giúp chúng ta giải đáp nghi vấn: “Đức tin là gì? Tin có nghĩa gì? Hiển nhiên, đức tin Kitô Giáo chống lại nền tảng vô tín ngưỡng và thuyết vô thần, mà thuyết này đôi khi mang hình thức một cuộc tranh chấp có kế hoạch chống lại tôn giáo, và đặc biệt chống lại Kitô Giáo. Chính vì thái độ thù nghịch như thế, mà chúng ta nên thức tỉnh thường xuyên, thấu triệt và trưởng thành về đức tin được biểu thị do cảm thức sâu xa trong tinh thần trách nhiệm và yêu thương đối với mọi người. Nhận biết những khó khăn, những chống đối và đàn áp, chúng ta cần phải khơi dậy tinh thần để sẵn sàng làm chứng nhân “cho niềm hy vọng vốn sẵn ở trong chúng ta” (1 Pet 3:15).

 Buổi gặp chung ngày 12 tháng Sáu, 1985