11 Chương 11
Chương 11.
Sách Thánh Được Thần Ứng
Hôm nay, một lần nữa chúng ta nhắc lại những lời tuyệt vời trong Hiến Chế Dei Verbum của Công Đồng Vatican II: “(Và như thế) Thiên Chúa, Đấng đã nói xưa kia, không ngừng đối thoại với hiền thê của Con yêu dấu Ngài (là Giáo Hội); cũng như Chúa Thánh Linh mà nhờ Ngài tiếng nói hằng sống của Phúc Âm vang lên trong Giáo Hội, và qua Giáo Hội, vang dội trong thế giới, dẫn đưa các tín hữu tới chân lý và làm cho lời Chúa Kitô ngự dồi dào trong họ (tc. Col 3:16)” (DV 8).
Chúng ta xem xét lại ý nghĩa động từ “tin.” Tin theo học thuyết Kitô có nghĩa chính xác là được Chúa Thánh Linh hướng dẫn tới toàn chân lý thiên khải. Điều đó nghĩa là cộng đồng tín hữu rộng mở tâm hồn đón nhận lời Phúc Âm Chúa Kitô. Cả hai đều khả thi trong mọi thế hệ. Việc truyền thông thiên khải sống động trong Thánh Truyền và Sách Thánh, vẫn nguyên vẹn trong Giáo Hội, nhờ nỗ lực đặc biệt của Huấn Quyền, phù hợp với đức tin siêu nhiên của Dân Thiên Chúa.
Lời giải thích nguyên thủy
Giáo thuyết về thần ứng của Sách Thánh và giải thích Sách Thánh cách chính xác cũng là điều quan trọng để hoàn tất ý niệm về mối liên hệ giữa “lời tuyên tín” của Giáo Hội Công Giáo với nguồn gốc lời tuyên xưng này. Khi bàn về tín lý (đức tin) này, trước nhất chúng ta sẽ theo Hiến Chế Dei Verbum (như trong các bài giáo lý trước).
Công Đồng dạy: “Giáo Hội Mẹ Thánh, căn cứ vào đức tin từ các tông đồ truyền lại, xác nhận toàn bộ các sách Cựu và Tân Ước, với tất cả mọi phần bộ (cuốn), đều là Sách Thánh và được ghi vào bản chính lục vì các sách này được viết dưới linh ứng của Chúa Thánh Linh (tc. Jn 20:31; 2 Tim 3:16, 2 Pet 1:19-21; 3:15-16). Thiên Chúa là tác giả các sách này và trao cho Giáo Hội với nguyên trạng” (DV 11).
Nói một cách chính xác, Thiên Chúa là tác giả vô hình và siêu việt. “Ngài đã chọn những người và dùng họ theo khả năng và phương tiện của họ để ... viết ra mọi điều Chúa muốn và chỉ viết những điều đó một cách trung thực” (DV 11). Vì vậy Chúa Thánh Linh hoạt động trong các ngài và qua các ngài (tc. DV 11).
Căn cứ vào việc dẫn giải nguồn gốc trên, chúng ta phải chấp nhận rằng: “Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm những chân lý Thiên Chúa muốn Thánh Kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta” (DV 11). Những lời thánh Phaolô trong Thư gửi ông Timothy đã xác nhận điều này. Ngài viết: “Mọi điều trong Sách Thánh đều được Thiên Chúa linh ứng và hữu ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, và huấn đức để người thuộc về Thiên Chúa có thể trở nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tim 3:16-17).
Theo lời thánh John Chrysostom, Hiến Chế Divine Revelation (Dei Verbum, Thiên Khải) diễn tả sự thán phục đối với “việc hạ cố” đặc biệt, có thể nói là một “hành động cúi mình xuống” của Đấng Khôn Ngoan. “Những lời Thiên Chúa đã được diễn tả và đồng hóa với ngôn ngữ loài người. Cũng như Ngôi Lời của Chúa Cha hằng hữu, khi mặc xác phàm yếu đuối, đã trở nên giống con người bình thường” (DV 13).
Hiến chế đề ra các quy luật
Một số quy luật liên quan đến việc giải thích Sách Thánh theo luận lý phát xuất từ chân lý về thần ứng. Hiến Chế Dei Verbum đề ra những quy luật đó cách vắn gọn:
Nguyên tắc đầu tiên là “(vì) trong Sách Thánh, Thiên Chúa phán dạy qua các ngôn từ của loài người, để thấu hiểu điều Thiên Chúa muốn truyền thông cho chúng ta, người giải thích Sách Thánh phải thận trọng tìm hiểu ý tưởng mà các tác giả Sách Thánh thực sự muốn trình bày, và điều Thiên Chúa muốn biểu lộ qua lời lẽ của các vị ấy” (DV 12).
Điều thứ hai, với mục đích thấu hiểu lời Thiên Chúa trong những phương pháp khác nhau, chúng ta cần phải xét “các văn thể.” “Bởi vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau: thí dụ như lịch sử, ngôn sứ, thi ca, hoặc những thể loại khác” (DV 12). Điều tác giả mô tả chuyên chở ý nghĩa gì tùy thuộc tính chính đáng của các thể văn, vì thế các thể văn đó cần phải được khảo sát dựa theo lai lịch hoàn cảnh thời đại và nền văn học thời đó.
Kế đến, đây là nguyên tắc thứ ba đối với việc diễn giải đúng ý nghĩa Sách Thánh: “Để hiểu đúng ý nghĩa điều tác giả Sách Thánh muốn xác minh, cần phải chú tâm đúng mức đến những cách nhận thức, diễn tả, tường thuật, được thịnh hành trong thời của tác giả, cũng phải để ý các hình thức người thời đó thường dùng khi giao tế với nhau” (DV 12).
Nội dung và nhất quán tính của Sách Thánh
Ba chỉ dẫn chi tiết nêu trên, dùng cho việc giải thích lịch sử và văn học, cho thấy phải có mối liên hệ được đào sâu với những tiền đề giáo thuyết về thần ứng của Sách Thánh. Sách Thánh phải được “đọc và giải thích theo cùng một Chúa Thánh Linh vì Sách Thánh cũng được Ngài linh ứng viết ra” (DV 12). Vì thế “muốn quán triệt Sách Thánh, chúng ta phải ân cần lưu ý nội dung và nhất quán tính của toàn bộ Sách Thánh ... truyền thống sống động của toàn Giáo Hội và sự tương hợp toàn bộ đức tin” (DV 12).
Nhờ “tính cách tương hợp vẫn tồn tại giữa các yếu tố đức tin,” chúng ta muốn nói tính mạch lạc của các chân lý cá biệt của đức tin giữa các yếu tố với nhau và với toàn thể chương trình mạc khải và trọn vẹn công trình tuyệt vời chứa đựng trong đó.
Nhiệm vụ các nhà chú giải và những người khảo cứu Sách Thánh theo những phương pháp chính đáng là phải đóng góp theo những nguyên tắc nói trên đây nghĩa là “nỗ lực tìm hiểu và trình bày ý nghĩa Sách Thánh cách sâu rộng hơn, để qua việc học hỏi chuẩn bị giúp cho phán quyết của Giáo Hội được thận trọng chín chắn” (DV 12). Ngoài ra cũng phải nhìn nhận Giáo Hội có “sứ mệnh và trọng trách gìn giữ và giải thích lời Thiên Chúa” (DV 12). Bất cứ điều gì liên quan đến “cách thức giải thích Sách Thánh cuối cùng phải tùy thuộc vào phán quyết của Giáo Hội” (DV 12).
Nguyên tắc căn bản trên đây rất quan trọng và quyết định đối với việc định rõ mối liên hệ hỗ tương giữa chú giải Sách Thánh (và thần học) và Huấn Quyền của Giáo Hội. Đây cũng là nguyên tắc vẫn còn liên hệ chặt chẽ với điều chúng ta vừa nói trước đây về việc trao truyền thiên khải. Chúng ta cũng phải chú tâm vào việc Huấn Quyền sử dụng công việc của các thần học gia và các chuyên gia chú giải Kinh Thánh, đồng thời xem xét những kết quả việc các vị này nghiên cứu học hỏi. Huấn Quyền có nhiệm vụ bảo vệ toàn bích tất cả các chân lý chứa đựng trong thiên khải.
Thiên Chúa quan phòng
Tin theo học thuyết Kitô nghĩa là trung thành với chân lý mà chính Chúa Kitô ban khi Ngài thành lập Giáo Hội. Điều này đúng đối với tất cả mọi tín hữu, và cũng đúng, đúng trình độ và đúng mức, với các nhà thần học và các nhà chú giải Thánh Kinh. Trong địa hạt này sự quan phòng đầy thương xót của Thiên Chúa được tỏ rõ cho mọi người. Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta không chỉ duy ơn về tự khải của Ngài, mà Ngài cũng còn ban cho sự bảo đảm gìn giữ việc giải thích và diễn giải ơn này cách trung thành, và trao ơn này vào tay Giáo Hội.
Buổi gặp chung ngày 1 tháng Năm, 1985