26 Chương 26
Chương 26.
Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống,
Là Thần Linh, Vô Biên và Vô Hình
Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta khi nói chuyện với người phụ nữ Samaria gần giếng Jacob, ở Sychar, đã tuyên bố rằng: “Thiên Chúa là thần khí” (Jn 4:24).
Trong linh thông của những lời: “Thiên Chúa là thần khí” chúng ta tiếp tục giải thích trong bài huấn giáo hôm nay về đệ nhất chân lý của biểu tượng đức tin: “Tôi tin kính Thiên Chúa.” Chúng ta trang trọng nhắc đến giáo huấn trong chương I Hiến Chế Dei Filius của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa Đấng tạo thành muôn loài.” “Thiên Chúa đã tự khải ‘qua lời các ngôn sứ, và nhất là ... qua Chúa Con’ (Dt 1:1), Ngài là Đấng tạo thành vũ trụ, Ngài khác biệt về bản chất với vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng.” Ngài cũng là Đấng Hằng Hữu, như bài giáo lý trước đã giải thích, trong khi mọi thụ tạo đều bất nhất và lệ thuộc thời gian.
Vì Thiên Chúa của đức tin chúng ta là Đấng Hằng Hữu, Ngài là sức sống sung mãn. Như thế, Ngài khác biệt với tất cả mọi sinh linh nơi thế giới hữu hình. Đây là vấn đề “đời sống” phải được hiểu theo ý nghĩa cao nhất của từ ngữ này khi nói về Thiên Chúa Đấng là thần linh, hoàn toàn thần thiêng. Bởi thế, Công Đồng Vatican I dạy: Thiên Chúa thì bao la vô tận và vô hình. Chúng ta không tìm thấy nơi Ngài điều gì có thể đo lường theo tiêu chuẩn thế giới thụ tạo và hữu hình, và theo tiêu chuẩn thời gian ghi dấu khoảng đời một con người. Thiên Chúa vượt trên vật thể, Ngài tuyệt đối “phi vật chất, vô thể, vô hình.” Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể hiểu “sự linh thiêng” của Thiên Chúa không giới hạn trong phương pháp tiêu cực, nói một cách rõ ràng là không màng gì đến vật chất. Chúng ta nhận biết chắc chắn sự linh thiêng là một siêu việt tính của Thiên Chúa, theo lời Chúa Giêsu Nazareth nói với người phụ nữ Samaria: “Thiên Chúa là thần linh ” (Jn 4:24).
Văn kiện Công Đồng Vatican I chúng ta dẫn chiếu ở đây minh xác giáo thuyết về Thiên Chúa. Giáo Hội tuyên xưng và rao giảng giáo thuyết này với hai lời khẳng định căn bản: “Thiên Chúa là bản chất linh thiêng duy nhất, hoàn toàn đơn thuần và bất biến”; và “Thiên Chúa thì vô cùng trong trí tuệ, ý chí, và mọi điều toàn hảo.”
Giáo thuyết về sự linh thiêng của Thiên Chúa, trao ban qua mạc khải, được ghi rõ ràng trong văn kiện Công Đồng Vatican I trên đây theo “thuật ngữ bản thể.” Giáo thuyết này được trình bày theo cấu trúc: “bản chất linh thiêng.” Từ ngữ “bản chất” liên quan với ngôn ngữ triết học về sự hữu.
Văn kiện Công Đồng muốn công bố rằng Thiên Chúa, Đấng tự bản chất Ngài khác biệt với toàn thể thế giới thụ tạo, không những chỉ là Đấng Tự Hữu, mà cũng còn là Thần Linh Tự Hữu. Thiên Chúa Hằng Hữu tự bản chất của Ngài là thần linh tuyệt đối.
Tính chất linh thiêng biểu hiện lý trí và ý chí tự do. Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, Ý Chí và Tự Do ở mức độ vô cùng, y như Ngài cũng toàn hảo ở mức độ khôn cùng.
Chúng ta tìm thấy trong Sách Thánh và Truyền Thống những dữ kiện mạc khải thường xác nhận các chân lý này về Thiên Chúa. Bây giờ chúng ta muốn trưng dẫn chỉ một vài đoạn trích từ Phúc Âm (những đoạn này) nhấn mạnh sự khôn ngoan thông minh vô cùng toàn hảo của Đấng Hằng Hữu. Chúng ta sẽ dành những bài giáo lý kế tiếp nói về sự tự do và thánh ý vô cùng toàn hảo của Thiên Chúa.
Trước hết, chúng ta nhớ lại lời Thánh Phaolô ngỡ ngàng thốt lên trong Thư gửi tín hữu Roma: “Ôi sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt sâu thẳm dường nào! Ai dò thấu và theo dõi được quyết định của Ngài và đường lối của Ngài! Thật vậy, ai đã biết được tâm ý của Chúa?” (Rom 11:33ff.).
Những lời Thánh Tông Đồ đã vang dội lên về giáo lý trong các triết thư thuộc Cựu Ước, như Thánh vịnh 147:5 cao rao: “Sự khôn ngoan của Ngài (nói về Thiên Chúa) khôn lường.” Sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa phù hợp với sự khôn ngoan của Ngài: “Chúa thật cao cả xứng mọi lời chúc tụng, và sự cao cả của Ngài khôn dò thấu” (Tv 145:3). “Không thể giảm thiểu hoặc tăng thêm, cũng không thể truy nguyên (phát hiện ra) những việc lạ lùng của Chúa. Khi một người làm xong, người đó chỉ mới bắt đầu, và khi người đó ngừng lại người đó sẽ ngỡ ngàng” (Sir 18:5-7). Rồi người khôn ngoan thốt lên: “Ngài cao cả hơn tất cả mọi công trình của Ngài” (Sir 43:28), và kết luận: “Ngài là tất cả ” (Sir 43:27).
Ngôn sứ Isaiah sử dụng (chuyển sang) ngôi thứ nhất: “Tôi (Ta),” trong khi các tác giả “sách triết thư ” nói về Thiên Chúa ở ngôi thứ ba: “Ngài.” Ngôn sứ Isaiah nói lời Thiên Chúa nhập vào miệng ông: “Như trời cao xa hơn đất thế nào, đường lối của Ta cũng cao hơn những đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi (như vậy)” (Is 55:9).
“Những tư tưởng” và “sự thông suốt khôn ngoan” của Thiên Chúa hiển lộ sự toàn thiện vô cùng của chính Ngài. Bởi vì khôn ngoan thượng trí vô cùng, Thiên Chúa siêu vượt tất cả mọi thứ ở ngoài Ngài. Không một thụ tạo nào, đặc biệt là không một con người nào, có thể chối sự toàn thiện này. Thánh Phaolô hỏi: “Hỡi con người, bạn là ai mà dám cãi lại Thiên Chúa? Chẳng lẽ sản phẩm lại hỏi người sản xuất ra nó, ‘Tại sao ông lại làm ra tôi như thế này?’ Phải chăng người thợ gốm không có quyền dùng đất sét theo ý mình?” (Rom 9:20). Suy nghĩ và nói về mình theo cách này là di sản từ Cựu Ước. Cũng những câu hỏi và đáp lại tương tự được tìm thấy trong Sách Ngôn Sứ Isaiah (tc. Is 29:15; 45:9-11) và trong Sách ông Job (tc. Job 2:9-10; 1:21). Sách Đệ Nhị Luật loan truyền: “Hãy tôn vinh Thiên Chúa! Ngài là tảng đá, kỳ công của Ngài tuyệt hảo; vì mọi đường lối của Ngài đều chính trực công minh. Một Thiên Chúa thành tín và không chút gian dối, Ngài quả là chính trực và công minh” (Đnl 32:3-4). Lời chúc tụng sự toàn thiện vô cùng của Thiên Chúa không những chỉ là lời xưng tụng sự khôn ngoan của Ngài, mà cũng ca tụng đức công chính và chính trực của Ngài, tức là xưng tụng sự toàn thánh của Ngài.
Trong Bài Giảng trên Núi, Chúa Giêsu Kitô nhấn mạnh: “Anh chị em hãy nên trọn lành như Cha trên trời của anh chị em là Đấng trọn lành” (Mt 5:48). Điều mà Chúa Cứu Thế dạy ở đây là lời mời gọi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng tận thiện toàn mỹ! Ngài là Đấng tốt lành vô cùng” (Vatican I, DS 3001).
Sự tận thiện toàn mỹ của Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô. Ngài nói với người phụ nữ Samaria: “Thiên Chúa là thánh linh ... những người thờ phượng chân thật phải thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý ...” (Jn 4:23-24). Khi trả lời người thanh niên nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân hậu ...”, Ngài nói về chính mình cách có ý nghĩa: “Tại sao anh gọi Tôi là nhân hậu? Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng nhân hậu ...” (Mc 10:17-18).
Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng tốt lành nhân hậu, và Ngài sở hữu sự toàn thiện vô cùng. Thiên Chúa gồm trọn vẹn mọi thiện hảo. Phải, chỉ có Ngài mới “là” sự sung mãn tuyệt vời, cũng tương tự như vậy Ngài “là Đấng Tận Thiện” và mọi việc Ngài làm đều tuyệt hảo. Tính cách sung mãn hoàn hảo này thích ứng với sự toàn thiện vô cùng của thánh ý Ngài. Cũng như vậy, sự sung mãn tuyệt đối của chân lý hợp với sự toàn thiện vô cùng của trí tuệ và sự khôn ngoan của Ngài. Sự toàn chân nguồn căn trong sự khôn ngoan của Ngài vì (sự toàn chân này) được nhận biết do sự thông minh mẫn tiệp tuyệt vời của Ngài đồng nhất với việc hiểu biết và bản thể của Ngài. Thiên Chúa là thánh linh vô cùng toàn hảo, nhờ Ngài mà những ai đã nhận biết Ngài đều trở nên những tín hữu thuần thành của Ngài. Những người thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý.
Thiên Chúa, Đấng Tận Thiện Toàn Mỹ là chân lý viên mãn tuyệt đối, “est diffusivum sui” (Summa Theol., I, q.5, a. 4, ad 2). Thiên Chúa đã mạc khải chính Ngài cũng do điều này. Mạc khải tự biểu hiện mọi sự hoàn hảo là Chân Lý.
Tóm lại, Thiên Chúa Đấng đã tự khải, muốn truyền dạy và ban chính Ngài một cách siêu việt khôn tả! Ngài là Thiên Chúa của giao uớc và ân sủng.
Buổi gặp chung ngày 11 tháng Chín, 1985