28 Chương 28
Chương 28.
Thiên Chúa của Giao Ước
Chúng ta cố gắng giải đáp tiếp vấn đề: Thiên Chúa là AI? Bởi lời giải đáp này liên quan tới vấn đề đích thực là tự khải của Thiên Chúa. Lời giải đáp này còn mang ý nghĩa quan trọng là sự chân thực của đức tin cũng như lòng xác tín của trí tuệ được đức tin soi sáng.
Chúng ta trở lại chân Núi Horeb thêm lần nữa. Ông Moses đang chăn cừu tại đó. Ông nghe từ giữa bụi cây rực lửa tiếng nói: “Ngươi hãy trút dép ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh” (Xh 3:5). Tiếng nói tiếp: “Ta là Thiên Chúa của tổ tiên ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob.” Ngài là Thiên Chúa của các bậc tổ tiên dân tộc Israel. Ngài đã phái ông Moses giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ người Ai Cập.
Chúng ta biết sau khi đã nhận sứ mệnh này, ông Moses hỏi thánh danh Thiên Chúa. Ông nhận được lời giải đáp rằng: “Ta là Đấng Hằng Hữu (I am who I am).” Truyền thống các nhà chú giải Thánh Kinh, các thần học gia và Huấn Quyền của Giáo Hội giải thích lời đáp này là mạc khải về Thiên Chúa “Đấng Hằng Hữu.” Đức Phaolô VI nhắc lại điều này trong Lời Tuyên Tín của Dân Thiên Chúa (Credo of the People of God) (1968).
Nhờ lịch sử ơn cứu độ soi sáng, chúng ta có thể hiểu rõ và chính xác hơn về Thiên Chúa trong lời đáp: “Ta là Đấng Hằng Hữu.” Quan trọng nhất là Thiên Chúa, Yahweh, mạc khải chính Ngài là Thiên Chúa của giao ước bằng việc phái ông Moses đi vì danh xưng này: “Ta là Thiên Chúa Hằng Hữu; tới đây muốn giao ước, yêu thương và cứu độ các ngươi.”
Như thế Đấng Hằng Hữu được giới thiệu là Thiên Chúa Hữu Ngã. Ngài tự khải cho con người biết và đối xử với con người theo tư cách đó. Theo một chừng mực nào đó như đã từng xảy ra trong việc tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa rời khỏi “sự ẩn dật” để truyền thông tự ngã, bằng việc hiển lộ chính Ngài cho thế giới và đặc biệt là cho nhân loại được tạo dựng theo hình ảnh giống Ngài (St 1:26). Mạc khải danh xưng “Ta là Đấng Hằng Hữu” (Yahweh) dường như đặc biệt minh họa chân lý về Thiên Chúa là Đấng Hữu Ngã, Ngài biết, Ngài yêu thương và lôi kéo mọi người đến với Ngài. Đấng là Thiên Chúa của giao ước.
Giai đoạn mới của giao ước
Trong lần đối thoại này với ông Moses, Thiên Chúa chuẩn bị một giai đoạn mới của giao ước và lịch sử cứu độ. Thiên Chúa khởi sự giao ước ghi dấu lịch sử cứu độ qua vô số biến cố, như Lời Nguyện Thánh Thể IV diễn tả: “Biết bao lần Chúa đã lập giao ước với con người.”
Khi nói với ông Moses tại chân Núi Horeb, Thiên Chúa - Yahweh cho thấy Ngài là “Thiên Chúa của ông Abraham, Thiên Chúa của ông Isaac, Thiên Chúa của ông Jacob”. Ngài là Thiên Chúa, Đấng đã lập giao ước với ông Abraham (tc. St 17:1-14) và với các miêu duệ của ông. Những vị này là tổ phụ, là những người tiên lập gia đình dân được tuyển chọn; dân này đã trở nên Dân Thiên Chúa.
Tuy nhiên, những sáng kiến của Thiên Chúa về giao ước đã có trước thời ông Abraham. Sách Sáng Thế viết về giao ước với ông Noe (Noah) sau đại hồng thủy (tc. St 9:1-17). Chúng ta có thể nhắc đến giao ước đầu tiên trước khi có tội nguyên tổ (tc. St 2:15-17). Chúng ta cũng có thể nói, trong công cuộc cứu độ, Thiên Chúa muốn thiết lập một giao ước với dân Ngài từ khởi đầu lịch sử nhân loại.
Ơn cứu độ là việc hiệp thông đời sống bất tận với Thiên Chúa. “Cây hằng sống” (tc. St 2:9) trong địa đàng trần thế tiêu biểu sự sống này. Tất cả mọi giao ước Thiên Chúa đã kết ước với nhân loại sau tội Adam xác nhận chân lý Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại. Thiên Chúa của giao ước là “Đấng ban tự thân” huyền nhiệm: Thiên Chúa của mạc khải và Thiên Chúa ân sủng. Ngài không chỉ tự khải cho nhân loại, mà Ngài còn làm cho nhân loại trở nên người chia sẻ bản tính thần linh (2 Pet 1:4).
Giao ước đạt tới mức độ cuối cùng trong Chúa Giêsu Kitô Đấng là “giao ước mới và đời đời” (Dt 12:24; 13:20). Giao ước này làm chứng tính chất hoàn toàn độc đáo của chân lý về Thiên Chúa mà chúng ta tuyên xưng trong lời tuyên tín Kitô Giáo. Trong thời cổ đại ngoại giáo, thiên tính là đối tượng khát vọng của loài người. Mạc khải trong Cựu Ước cũng nhiều nhưng không nhiều bằng trong Tân Ước cho thấy Thiên Chúa hằng tìm kiếm lôi kéo nhân loại đến với Ngài. Chính Thiên Chúa muốn thiết lập giao ước: “Ta sẽ là Thiên Chúa (của) các ngươi và các ngươi sẽ là dân (của) Ta” (Lev 16:12); “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta” (2 Cor 6:16).
Ý nghĩa việc tạo dựng
Cũng như việc tạo dựng, giao ước là sáng kiến hoàn toàn tự do và tối cao của Thiên Chúa. Giao ước cho thấy rõ ràng hơn tính cách quan trọng và ý nghĩa việc tạo dựng trong sự tự do sâu thẳm khôn dò của Thiên Chúa. Thiên Chúa-Đấng Tạo Hóa và Thiên Chúa-Giao Ước là nguồn mạch của minh triết, tình yêu và sự tự do siêu việt.
Nhờ giao ước, nhất là giao ước trọn vẹn và cuối cùng trong Chúa Giêsu Kitô, theo chừng mực nào đó Thiên Chúa hiện diện khắp thế giới. Tuy vậy Ngài vẫn duy trì siêu việt tính của Ngài. Thiên Chúa nhập thể bị đóng đinh thập giá vẫn còn là vấn đề huyền nhiệm. Nhưng đối với chúng ta những phàm nhân chẳng những không hiểu nổi, không diễn tả được, mà còn không thấu cảm được lòng yêu thương vô bờ bến của Ngài.
Tuyên tín Thiên Chúa duy nhất (độc thần)
Vì không muốn đi trước những chủ đề các bài giáo lý trong tương lai, chúng ta trở lại với ông Moses. Mạc khải về thánh danh Thiên Chúa tại chân Núi Horeb chuẩn bị cho giai đoạn giao ước mà Thiên Chúa của các tổ phụ muốn lập với dân Ngài tại Núi Sinai. Sự giao ước này phác họa ra lời tuyên tín của ý nghĩa độc thần (nhất thần) đặt căn bản trên sự giao ước trong cách thái quyết liệt và hiển hiện: “Tôi tin kính một Thiên Chúa!” Thiên Chúa là duy nhất và độc đáo. Sách Xuất Hành nói: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ lầm than. Các ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:2-3). Chúng ta thấy căn bản lời tuyên tín trong Cựu Ước diễn tả những lời Sách Đệ Nhị Luật: “Hãy nghe hỡi Israel: Chúa là Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” (Đnl 6:4; xđ. Đnl 4:39-40).
Ngôn sứ Isaiah muốn đưa vào lời tuyên tín độc thần của Cựu Ước lời diễn tả đầy ý nghĩa tiên tri: “Chúa phán: Các ngươi là nhân chứng của Ta, là tôi tớ Ta đã chọn, để các ngươi có thể biết và tin Ta và hiểu rằng Ta là Ta. Trước Ta không có thần nào khác được hình thành, sau Ta cũng vậy. Ta, Ta là Chúa, và ngoài Ta không có ai cứu độ ... Các ngươi là nhân chứng của Ta – Chúa phán – và Ta là Thiên Chúa, từ thuở đời đời Ta vẫn là Ta” (Is 43:10-13). “Hãy trở lại với Ta và được cứu độ, khắp cõi địa cầu, vì Ta là Thiên Chúa, và chẳng có chúa nào khác” (Is 45:22).
Ngoại đạo đa thần giáo
Thiên Chúa duy nhất là chân lý lập thành căn bản trong Cựu và Tân Ước. Thánh Phaolô diễn tả chân lý này bằng câu thời danh trong Tân Ước: “Chỉ có một Thiên Chúa, Cha mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Eph 4:6). Nhưng chính Thánh Phaolô đã quyết liệt chống lại đa thần giáo (tc. Rom 1:23; Gal 3:8) cũng giống sự việc đó trong Cựu Ước. Thánh Phaolô tuyên xưng với lòng xác tín rằng Vị Thiên Chúa duy nhất chân thật “là Thiên Chúa của tất cả mọi người, người cắt bì cũng như người không cắt bì, cả Israel và Dân Ngoại” (tc. Rom 3:29-30). Mạc khải về Thiên Chúa duy nhất chân thực đã được ban cho Israel là dân được tuyển chọn trong Cựu Ước, ngày nay đã được loan truyền trong khắp nhân gian. Nhân loại có thể tìm thấy trong độc thần giáo lời diễn tả niềm xác tín mà con người có thể đạt tới bằng quang minh của lý trí. Nếu Hữu Thể nào vô cùng toàn hảo, hẳn nhiên Hữu Thể đó phải là Thiên Chúa Duy Nhất. Chân lý, được mạc khải trong Cựu Ước, qua Chúa Giêsu Kitô đã trở nên đức tin của Giáo Hội hoàn vũ trong Tân Ước. Giáo Hội tuyên xưng: “Tôi tin kính Thiên Chúa duy nhất.”
Buổi gặp chung ngày 25 tháng Chín, 1985