02 Chương 2
Chương 2.
Tinh Thần Đức Tin Là Cốt Tủy Việc Dạy Giáo Lý Kitô Giáo
Huấn giáo đưa ra một số vấn đề sư phạm. Từ các văn liệu Phúc Âm, chúng ta biết ngay cả Chúa Giêsu cũng đã gặp những vấn đề này. Khi giảng dạy cho các đám đông dân chúng, Chúa dùng dụ ngôn để truyền đạt giáo huấn của Ngài cho phù hợp với trình độ người nghe. Khi giảng dạy các môn đệ, Chúa tiến hành từ từ, chú ý đến sự khó khăn các vị đó gặp trong việc hiểu lời Ngài. Vì thế chỉ khi tới giai đoạn thứ nhì trong cuộc đời công khai, Chúa mới rõ ràng nói về con đường thống khổ và mãi tới cuối cùng Ngài mới minh xác Ngài không những chỉ là Đấng Thiên Sai, nhưng là “Con Thiên Chúa.” Một điều cũng cần ghi nhận là trong những lần đối thoại chi tiết nhất, Chúa truyền ban mạc khải bằng cách dùng ngôn từ bình dân giải đáp những câu hỏi của người nghe. Đôi khi chính Ngài đưa ra câu hỏi và nêu lên những vấn nạn.
Chúa Kitô cho chúng ta thấy huấn giáo cần thích ứng đa dạng hợp với những nhóm và những người nghe giảng dạy giáo lý. Ngài cũng cho thấy bản chất và những giới hạn của việc thích ứng này. Ngài truyền đạt cho người nghe toàn thể giáo thuyết Ngài đã được phái đến để rao giảng. Ngài mạch lạc rao giảng sứ điệp với lòng xác tín cho cả những người chống đối Ngài. Chẳng hạn như sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Ngài nói về Nhiệm Tích Thánh Thể. Ngài không màng đến những người chống đối và bỏ đi, Chúa Giêsu vẫn kêu gọi các môn đệ chấp nhận giáo lý của Ngài (tc. Jn 6:60-69). Khi truyền trao toàn thể sứ điệp của Ngài, Chúa Giêsu tin tưởng vào hành động soi sáng của Chúa Thánh Linh, Đấng sẽ làm sáng tỏ cho những người lúc đó chưa hiểu thấu đáo (tc. Jn 14:26; 16:13). Vì thế ngay cả đối với chúng ta, việc thích ứng huấn giáo không được phép giảm thiểu hoặc cắt xén nội dung giáo thuyết đã mạc khải, trái lại phải tận lực làm cho người người chấp nhận giáo lý trong niềm tin vững chắc, dưới ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Linh.
Vấn đề thích ứng
Theo gương thầy duy nhất của mình là Chúa Giêsu trong việc giảng dạy giáo lý, Giáo Hội đã cố gắng thích ứng với những người Giáo Hội muốn truyền thông ánh sáng Phúc Âm cho. Nỗ lực thích ứng này đặc biệt rõ ràng trong thời cận đại như được minh chứng bằng việc chuyên biệt hóa tiến trình giảng dạy giáo lý. Thực tế là, các trường huấn giáo gia tăng gấp bội, những phương pháp huấn giáo đã giảng dạy có hệ thống, và đưa ra nhiều phương cách dạy giáo lý hữu hiệu hơn. Hy vọng nỗ lực này sẽ tiếp tục khai triển sâu rộng hơn nữa. Những điều cần cải tiến thích nghi thì vô số và khó khăn. Những vấn đề này thay đổi tùy theo không gian và thời gian, và còn tiếp tục mãi mãi trong tương lai.
Cũng nên ghi nhận những vấn đề khó khăn ngày nay gắn liền với những phát triển phương tiện truyền thông đại chúng. Bên cạnh những hình thức giản dị và theo truyền thống, việc giảng dạy giáo lý ngày nay sử dụng những phương tiện truyền thông tân tiến nhất. Giáo Hội hằng khuyến khích nỗ lực phát minh những phương thức mới cho việc truyền bá chân lý Phúc Âm. Chúng ta cần phải ưu ái nhìn nhận tất cả những bước khởi đầu tốt đẹp của việc dùng phương tiện truyền thông phục vụ huấn giáo. Chúng ta phải chúc mừng những người đã đi tiên phong trong lãnh vực này.
Sử dụng những phương tiện giảng dạy mới
Vì thế huấn giáo không có nghĩa là cứng ngắc theo những cách thức đã thực hiện trong quá khứ. Như cha đã nhìn nhận trong Tông Huấn Catechesi Tradendae, huấn giáo “cần phải được canh tân không ngừng bằng việc mở rộng quan niệm có chừng mực, duyệt lại các phương pháp, tìm kiếm ngôn từ thích hợp, và sử dụng những phương tiện mới để truyền đạt sứ điệp” (CT 17). Giáo Hội chú trọng đến tương lai hơn là quá khứ, thế nên việc huấn giáo cũng đi theo chiều hướng đó. Tương lai này đòi hỏi sự hợp tác tích cực từ mọi người có tâm huyết và cẩn thận mở cửa đón nhận những tiến bộ của xã hội nhân loại.
Nhu cầu canh tân đòi nỗ lực liên tục phản ánh những kết quả đã đạt được. Chúng ta không thể khởi đầu từ quan niệm cho rằng bất cứ thứ gì mới đều tốt và hữu hiệu. Điều quan trọng là phải duyệt xét bằng thử thách, thí nghiệm, tính hữu hiệu của phương pháp đã và đang áp dụng. Thời gian gần đây nhiều nỗ lực đáng kể đã được thực hiện để khai triển các phương pháp huấn giáo. Nhưng chúng ta không thể làm ngơ sự kiện là tại nhiều nơi đã thường có những than phiền về tình trạng hụt hẫng và nhiều kết quả đáng thất vọng của một số phương thức mới. Năm 1977, Thượng Hội Đồng phải nhìn nhận rằng “không thể chối là có những hạn chế và khiếm khuyết nơi sức sống của hoạt động huấn giáo tương phản với sự tiến bộ và những khởi đầu đầy hứa hẹn” (CT 17). Những khiếm khuyết này phải mở đường cho việc duyệt lại cẩn thận những phương tiện được sử dụng và giáo thuyết được truyền đạt.
Phối hợp và hệ thống
Thượng Hội Đồng (1977) đặc biệt nhấn mạnh tính cách cần thiết của việc giảng dạy có nhịp nhàng và hệ thống, chứ không phải ứng biến. Nếu đúng “việc làm theo thói quen hằng ngày dẫn đến kết quả là trì trệ, cứng ngắc và đờ đẫn,” chúng ta phải nhìn nhận “ứng biến sinh ra lầm lẫn mơ hồ cho những người học giáo lý và nhất là cho trẻ nhỏ và cha mẹ các em; ứng biến cũng sinh ra mọi loại sai trệch, gẫy đổ và sau cùng là hủy diệt toàn diện nhất quán tính” (CT 17).
Ngoài sự kiện huấn giáo có hệ thống, có chương trình và mục tiêu rõ rệt ra, ba đặc tính khác của việc giảng dạy giáo lý đã được nhắc lại trong phần thảo luận cuối của Thượng Hội Đồng (1977). Huấn giáo phải “đề cập tới những điều căn cốt, nhưng không giải quyết tất cả mọi nghi vấn hoặc để tự biến thành việc khảo cứu thần học hoặc chú giải khoa học. Mặc dầu vậy huấn giáo phải đầy đủ trọn vẹn, không dừng lại ở phần khởi đầu tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Kitô như chúng ta có trong kerygma[1]; huấn giáo phải là một khởi đầu trọn vẹn của Kitô hữu, rộng mở đón nhận tất cả mọi yếu tố khác của cuộc sống theo Chúa Kitô” (CT 21).
Chủ ý trình bày việc giảng dạy hoàn bị phát xuất tự nguyện từ tâm thái đối với đức tin, lòng yêu mến trung thành với toàn thể mạc khải và ước mong truyền đạt mạc khải. Tinh thần đức tin rất cần thiết đối với tất cả mọi việc giảng dạy về Chúa Kitô. Tìm kiếm và thiết lập thêm những phương cách thích nghi hơn vẫn không đủ nếu không được cảm ứng tinh thần đức tin. Những khía cạnh khoa học của sư phạm không thể bù đắp sự thiếu vắng lòng tin. Trong thực tế, chính đức tin thúc đẩy người giảng dạy giáo lý tìm kiếm phương pháp tốt nhất để giải thích và truyền đạt giáo thuyết. Chính lòng tin tạo thành linh hồn việc huấn giáo và thúc đẩy mọi nỗ lực về phương pháp sư phạm trong việc giảng dạy giáo lý.
Vì huấn giáo là một trong những phương cách truyền đạt mạc khải trong Giáo Hội, nên (huấn giáo) cần phải được xếp đặt theo nội dung và những phương pháp có cấu trúc thích đáng cho việc truyền đạt giáo lý. Điều này bao gồm sự liên kết bất khả (phân) ly giữa Sách Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền (tc. DV 10). Chúng ta sẽ có cơ hội trở lại chủ đề này trong những bài giáo lý kế tiếp.
Buổi gặp chung ngày 16 tháng 1, 1985