24 Chương 24
Chương 24.
Nhân Loại Tiếp Xúc Với Thiên Chúa trong Bóng Đức Tin
Thiên Chúa chúng ta tin, Đấng đã mạc khải thánh danh Ngài cách huyền nhiệm cho ông Moses nơi chân Núi Horeb “Ta là Đấng Hằng Tự Hữu,” thì hoàn toàn siêu việt đối với thế giới. Ngài “thực sự khác biệt với thế giới từ căn cốt..., và trội vượt cách khôn tả trên mọi sự vật ở ngoài Ngài hoặc những vật khác được coi như thế” (DS 3002): “est re et essentia a mundo distinctus, et super omnia quae pra-eter ipsum sunt aut concipi possunt ineffabiliter excelsus” (Const. Dei Filius, Vatican I, cap. I, ca 1-4). Tóm lại đây là điều Công Đồng Vatican I dậy, tuyên xưng đức tin muôn đời của Giáo Hội.
Công Đồng Vatican I dậy: mặc dù sự hiện hữu của Thiên Chúa có thể được minh chứng và cho dù bản thể của Ngài có thể nhận biết cách nào đó nơi bóng dáng các thụ tạo, nhưng không một dấu chỉ hoặc một hình ảnh thụ tạo nào có thể cho trí khôn loài người thấy rõ bản thể Thiên Chúa. Bản thể Thiên Chúa vượt quá mọi sự hiện hữu trong thế giới thụ tạo và tất cả những gì có thể nghĩ tới nơi trí tuệ con người. Thiên Chúa là “Đấng Cao Cả Khôn Tả” (ineffabiliter excelsus).
Nếu nghi vấn “Thiên Chúa là AI?” hỏi về bản thể Thiên Chúa, thì chúng ta không thể trả lời bằng một định nghĩa theo nghĩa hạn hẹp của từ ngữ. Bản thể của Thiên Chúa, thiên tính, được nhận thấy ngoài mọi phạm trù về loại (genus) và loài (species) mà chúng ta dùng theo những định nghĩa thông thường. Bởi thế bản thể của Thiên Chúa không thể bị giới hạn trong bất cứ một thứ định nghĩa nào. Nếu trong phạm trù “hiện hữu” chúng ta dùng loại suy hữu thể để suy nghĩ về Thiên Chúa, thì với điều kiện này chúng ta làm hiện rõ “nét không giống nhau” nhiều hơn là “nét giống nhau.” Chúng ta có thể nêu rõ hơn “sự không thể so sánh được” với “sự có thể so sánh” của Thiên Chúa với tạo vật (như Công Đồng Lateran IV năm 1215 cũng ghi nhận). Điều khẳng quyết này đúng với mọi tạo vật: đối với mọi tạo vật nơi thế giới hữu hình cũng như các thụ tạo thuộc đẳng trật linh thiêng, và cũng đúng đối với nhân loại, vì nhân loại được tạo dựng “theo hình ảnh và giống Thiên Chúa” (tc. St 1:26).
Theo cách này, sự kiện Thiên Chúa có thể được nhận biết qua các thụ tạo không làm mất đi “tính bất khả thấu đạt” căn cốt của Ngài. “Không thể hiểu được” Thiên Chúa như Công Đồng Vatican I minh định. Trí năng con người không có thể nào thấu hiểu Thiên Chúa một cách toàn vẹn dầu rằng trí năng con người đã được nâng lên cách có ý nghĩa bởi có sẵn đôi chút ý niệm vê Thiên Chúa, nhưng nhờ mạc khải của Cựu và Tân Ước mà đạt tới sự hiểu biết sâu xa và thấu đáo hơn mầu nhiệm Thiên Chúa. Thánh Tông đồ Phaolô nói: “Không một người nào đã từng có thể hiểu biết những tư tưởng của Thiên Chúa ngoại trừ Thánh Linh của Thiên Chúa” (1 Cor 2:11).
Trong thế giới tân tiến đương đại, trước hết tinh thần khoa học hướng về vật thể “có thể nhìn thấy” và “đo đạc được” dựa vào khoa học thực nghiệm và những dụng cụ quan sát, khảo cứu hiện có. Với những phương pháp thực chứng luận và máy móc kỹ thuật ngày nay, thì “tính bất khả thấu đạt” của Thiên Chúa trở nên rõ ràng hơn nữa đối với nhiều người, đặc biệt là trong giới theo văn hoá Tây Phương. Bởi thế những cảnh ngộ đặc biệt đã tạo điều kiện phát triển phái bất khả tri hoặc những thái độ vô thần trực tiếp, nhất là đối với nhiều người thời nay đã quen những giả thuyết đó. Một số người cho rằng hoàn cảnh trí tuệ con người thời nay, theo cách riêng của nó, có thể thiên về xác tín Thiên Chúa bất khả thấu đạt. Có thể nói sự xác tín này cũng thuộc về truyền thống tôn giáo phổ quát, và Kitô Giáo đã nhấn mạnh niềm tin này ở một vài cách thái (phương diện). Đó cũng là dấu hiệu cho thấy tính cách vô cùng và thực sự siêu việt của Thiên Chúa nên không thể xếp giữa các sự vật khả nghiệm và hiểu biết phổ thông của chúng ta.
Thật vậy, Thiên Chúa, Đấng đã tự khải và tự hiển lộ chính Ngài, là Đấng mà con người không thể nào hiểu và mô tả trọn vẹn được. Sách ông Giób (Job) nói: “Liệu anh có dò nổi những điều sâu xa của Thiên Chúa? Liệu anh có thể tìm ra giới hạn của Đấng Toàn Năng? Điều đó cao xa hơn các tầng trời; anh làm được chi? Điều đó sâu thẳm hơn Âm phủ (Shoel), anh biết được gì?”(Job 11:7-8).
Sách Xuất Hành tường thuật một biến cố có thể làm nổi bật chân lý trên đây một cách có ý nghĩa. Ông Moses hỏi Thiên Chúa: “Xin Ngài cho con thấy vinh quang của Ngài.” Chúa trả lời: “Ta sẽ cho tất cả mọi vinh quang của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ loan báo danh Ta trước mặt ngươi (biến cố đó đã xảy ra trong cuộc thần hiển nơi chân núi Horeb), nhưng ngươi sẽ không có thể nhìn thấy mặt Ta, vì loài người không thể nhìn thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33:18-20).
Về phần ngôn sứ Isaiah đã tuyên xưng:
“Ngài đích thực là Thiên Chúa ẩn hình.
Lạy Thiên Chúa của Israel, Đấng Cứu Độ” (Is 45:15).
Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải chính Ngài qua các ngôn sứ và sau cùng qua Con của Ngài, vẫn là “Thiên Chúa ẩn hình.” Thánh Tông Đồ Gioan mở đầu Phúc Âm của ngài: “Không một ai đã từng thấy Thiên Chúa; chỉ có Con duy nhất của Ngài, Đấng từ lòng Chúa Cha, đã mạc khải về Ngài” (Jn 1:18). Qua Chúa Con, Thiên Chúa của mạc khải đã đến với nhân loại một cách khác thường. Ý tưởng về Thiên Chúa mà nhân loại có được nhờ ở đức tin đạt tới tột đỉnh do sự kiện này. Dẫu rằng Thiên Chúa đã hiển hiện gần gũi hơn với nhân loại qua Ngôi Lời Nhập Thể nhưng trong yếu tính (bản thể) của Ngài vẫn là vị “Thiên Chúa ẩn hình.” Chúng ta cũng thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Không một ai đã thấy Chúa Cha, ngoại trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ngài mới thấy Chúa Cha” (Jn 6:46).
Như vậy, theo lời Chúa Giêsu trong Jn 6:4-6, Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải chính Ngài, vẫn ở trong mầu nhiệm bất khả thấu hiểu đối với con người sống trong trần thế. Đó là mầu nhiệm đức tin. Mục thứ nhất của lời tuyên xưng: “Tôi tin kính Thiên Chúa” diễn tả đệ nhất chân lý, đồng thời cũng là mầu nhiệm nền tảng thứ nhất của đức tin. Dẫu rằng Thiên Chúa đã cho biết về chính Ngài, nhưng với trí năng nhân loại Ngài vẫn còn là ĐIỀU biết được nhưng không thể thấu hiểu. Ở trần thế, nhân loại tiếp xúc với Thiên Chúa của mạc khải trong “bóng đức tin.” Điều này đã được bàn luận cặn kẽ trong toàn hệ thống thần học cổ điển và đương đại, nhấn mạnh đến tính bất khả diễn đạt của Thiên Chúa và tìm thấy điều minh xác sâu sắc đôi khi não nề trong huyền nghiệm (nhiệm) cao cả này. Nhưng nói cho đúng, theo lời Thánh Gioan Thánh Giá đã quả quyết: “bóng đức tin” này là ánh sáng dẫn đường tới Thiên Chúa (tc. The Ascent of Mount Camel, 2 S 9, 3).
Theo lời Thánh Phaolô, Thiên Chúa là “Vua các vua và Chúa các chúa, Đấng duy nhất hằng hữu và ngự trong ánh sáng không thể tới gần, Đấng mà không môt người nào đã từng nhìn thấy hoặc có thể nhìn thấy” (1 Tim 6:15-16).
Bóng đức tin đồng hành bất khả ly trong cuộc lữ hành trần thế của tâm hồn nhân loại hướng về Thiên Chúa, trong nỗ lực rộng mở đón nhận ánh sáng vinh quang mà chỉ tìm thấy nơi cuộc sống đời sau, nơi vĩnh hằng. “Bây giờ chúng ta nhìn thấy trong tấm gương, nhưng rồi trực diện nhãn tiền” (1 Cor 13:12).
“In lumine tuo videbimus lumen.”
“Trong ánh sáng của Ngài chúng con nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36:9).
Buổi gặp chung ngày 28 tháng Tám, 1985