Nhảy đến nội dung

23 Chương 23

  • T4, 22/01/2025 - 18:30
  • admin1

Chương 23.

Thiên Chúa Uy Nghi Vô Cùng 

     

“Chúng tôi tin Thiên Chúa duy nhất là Đấng tuyệt đối về bản tính cực thánh cũng như toàn thể sự trọn lành, quyền năng, tình yêu vô cùng, trong sự quan phòng, thánh ý và tình yêu của Ngài. Ngài là Đấng Hằng Hữu, như chính Ngài đã mạc khải cho ông Moses. Thánh tông đồ Gioan dạy, “Thiên Chúa là Tình Yêu.” Hai danh xưng, Đấng Tự Hữu và Tình Yêu, diễn đạt vô ngôn một thực tại thần linh của Đấng muốn cho chúng ta nhận biết: Ngài là Đấng ngự trong cõi ánh sáng không thể tới gần, vượt trên hết mọi danh hiệu, trên hết mọi sự và trên hết mọi trí khôn thụ tạo” (Insegnamenti di Paolo VI, VI; 1968; 302).

Ngày 30 tháng Sáu, 1968, kỷ niệm lần thứ 1900 cuộc tử đạo của thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Đức Phaolô VI công bố văn từ dẫn thượng trong tuyên ngôn “Tuyên Tín của Dân Thiên Chúa.” Tuy rằng chi tiết hơn so với các tuyên tín cổ xưa, nhưng những lời trong Tuyên Ngôn của Đức Phaolô VI diễn tả súc tích và toàn diện chân lý về Thiên Chúa mà Giáo Hội tuyên tụng từ phần mở đầu lời tuyên tín: “Tôi tin kính Thiên Chúa.” Ngài là Thiên Chúa, Đấng tự khải và chính là Thiên Chúa của đức tin chúng ta. Thánh danh Ngài, “Ta là Đấng Hằng Hữu,” đã mạc khải cho ông Moses từ bụi gai rực lửa nơi chân Núi Horeb, lại vang lên trong lời tuyên tín hôm nay. Đức Phaolô VI đã kết hợp hai thánh danh “Đấng Hằng Hữu” và “Tình Yêu” (theo lời mô tả trong Thư I của Thánh Gioan). Hai danh xưng này diễn tả chân lý căn cốt nhất về Thiên Chúa. Khi suy gẫm về bản thể Thiên Chúa, chúng ta vẫn phải viện dẫn các danh xưng này hầu tìm được lời giải đáp cho câu hỏi: Thiên Chúa là AI?

Đức Phaolô VI nhắc tới thánh danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Hằng Hữu” như ghi trong Sách Xuất Hành. Đức Phaolô VI nhìn thấy trong thánh danh này mạc khải Thiên Chúa là “Đấng Hằng Hữu” – Hằng Tự Hữu - là mạc khải minh họa bản thể Thiên Chúa, theo truyền thống tín lý và thần học nhiều thế kỷ, và cũng trong ngôn ngữ triết học về hiện hữu (bản thể học hay là siêu hình học) [ontology or metaphysics] mà Thánh Thomas Aquinas dùng. Chúng ta phải nói thêm rằng cách giải thích khắt khe theo ngữ học những từ (ngữ) “Ta là Đấng Hằng Hữu” khả dĩ có những ý nghĩa khác nữa mà chúng ta sẽ đề cập tới sau này. Những lời Đức Phaolô VI đã đủ bằng chứng cho thấy: Giáo Hội tiếp tục dùng “bản thể ” (esse) làm khởi điểm khi trả lời câu hỏi “Thiên Chúa là AI?” theo truyền thống thần học và giáo phụ hằng bao thế kỷ qua. Cũng không thể đưa ra câu trả lời cách nào khác chính đáng và dễ hiểu hơn.

Lời Thiên Chúa tự khải biểu lộ trong “hệ thống thuật ngữ về hiện hữu” cho thấy việc gặp gỡ đặc biệt giữa ngôn ngữ mạc khải và ngôn ngữ tri thức về thực thể của nhân loại mà từ xa xưa đã gọi là “nền đệ nhất triết học.” Ngôn ngữ triết học này giúp người ta hiểu phần nào danh xưng Thiên Chúa là “Đấng Hằng Tự Hữu.” Tuy nhiên, theo nhận xét của một trong những khuôn mặt xuất sắc nhất theo trường phái Thomas trong thời đại chúng ta phản ánh chính lời Thánh Thomas Aquinas (tc. Contra Gentes, 1, cc. 14, 30) thì cho dù sử dụng ngay cả ngôn ngữ thần học này chúng ta cũng chỉ có thể tối đa là “mấp máy nói lên” danh xưng được mạc khải để mô tả bản thể của Thiên Chúa (tc. E. Gilson, Le Thomisme, Paris 1944, ed. Vrin, pp. 33, 35, 41, 155-156). Ngôn ngữ loài người không thể diễn tả đầy đủ và toàn diện Thiên Chúa “Là AI”! Những ý niệm và ngôn từ của chúng ta về Thiên Chúa chỉ dùng để nói điều không phải là Ngài, chứ không thể nói điều chính là Ngài (tc. Summa Theologica 1, q. 12, a. 12).

Thiên Chúa Đấng trả lời ông Moses bằng những lời “Ta là Đấng Hằng Hữu” cũng là “Đấng Tạo Thành trời đất.” Chúng ta sẽ khai triển câu nói trên trong những bài giáo lý tiếp theo liên quan tới chân lý mạc khải về tạo dựng, đây là cơ hội ghi nhận theo cách giải thích phổ thông, từ ngữ “tạo dựng” có nghĩa là “từ không-hiện-hữu”, từ “hư-không”, “mà làm cho hiện hữu.” Được tạo thành có nghĩa là không sở hữu trong chính mình căn nguyên của mình, căn nguyên sự hiện hữu của một người, nhưng nhận được sự hiện hữu “từ một người khác.” Điều này được diễn tả cách tổng hợp bằng quán từ Latin ens ab alio (hữu thể tự tha). Ngài, Đấng tạo dựng, Đấng Tạo Thành, sở hữu sự hiện hữu nơi chính Ngài và từ chính Ngài như một hữu thể tự tại (ens a se).

Bản thể của Thiên Chúa là Hằng hữu. Ngài là siêu việt thể. Thế nên tất yếu Ngài phải hiện hữu. Vạn vật là loài thụ tạo nhờ Thiên Chúa mà chúng hiện hữu. Nhưng hiện hữu không phải là bản thể (essence) của chúng; chúng là những hữu thể “phụ thuộc.”

Những nhận xét trên đây liên quan tới chân lý mạc khải về việc tạo dựng vũ trụ giúp chúng ta hiểu Thiên Chúa là “Đấng Tự Hữu.” Những nhận xét đó cũng nối kết với câu trả lời: “Ta là Đấng Hằng Hữu” mà ông Moses được biết khi ông hỏi thánh danh Thiên Chúa. Theo thâm ý của những suy gẫm này chúng ta có thể hiểu cách rõ ràng đầy đủ ý nghĩa những lời uy nghiêm cao cả mà Thánh Cathérine de Siena đã nghe: “Con không là gì cả và Ta là Đấng Hằng Hữu” (St. Catherine, Legenda major, 1.10). Người ta thấu triệt niềm tin về thánh danh Thiên Chúa cũng như bản thể của Ngài nhờ được linh ứng qua tự khải của Ngài. Sự kiện này đã được minh xác bằng chân lý triệt để và bao gồm trong quan niệm tạo dựng.

Khi nói tới Thiên Chúa thì điều chính đáng là chúng ta viết “TA LÀ” và “NGÀI LÀ” bằng chữ hoa, dành chữ nhỏ cho các thụ tạo. Điều này hẳn cũng biểu hiện một đường lối chính xác khi nói về Thiên Chúa theo các phạm trù “hữu thể.”

Bởi vì Thiên Chúa là “Đấng Hằng Hữu sung mãn tuyệt đối” (“ipsum Esse Subsistens”) và bởi thế gồm mọi sự toàn hảo, Ngài hoàn toàn siêu việt đối với thế giới. Do bản thể của Ngài, do thần tính của Ngài, Ngài “vượt quá” và “trội vượt” vô cùng trên hết mọi tạo vật: mọi cá thể, cho dù toàn hảo tới đâu, và toàn thể mọi thụ tạo, hữu hình và vô hình.

Như thế hiển nhiên Thiên Chúa chúng ta tin, Ngài là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả. Tính cách uy nghi cao cả này là vinh quang Thiên Chúa và thánh danh Ngài, đã được chúc tụng nhiều lần trong Sách Thánh.

“Lạy Chúa, Thiên Chúa của chúng con,

thánh danh Ngài lẫy lừng khắp địa cầu!” (Tv 8:2).

“Vì Ngài thật cao cả và làm những việc lạ lùng,

chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa” (Tv 86:10).

“Không một ai sánh được như Ngài, lạy Chúa...” (Jer 10:6).

Trước Thiên Chúa vinh quang vô biên, chúng ta không thể làm gì khác hơn là bái gối trong thái độ khiêm tốn và vui mừng tôn thờ, nhắc lại theo phụng vụ trong bài ca Te Deum: “Pleni sunt caeli et terra maiestatis gloriae tuae.... Te per orbem terrarum sancta confitetur Ecclesia: Patrem immensae maiestati.” “Các tầng trời và địa cầu tràn đầy uy nghi cao cả và vinh quang Chúa... cho tới tận cùng trái đất Hội Thánh Chúa tuyên xưng lòng tin nơi Chúa – Chúa Cha, Ngài vô cùng uy nghi cao cả.”

      Buổi gặp chung ngày 7 tháng Tám, 1985