08 Chương 8
Chương 8.
Chúa Thánh Linh Luôn Luôn Hoàn Hảo Đức Tin Của Chúng Ta
Để Chúng Ta Có Thể Hiểu Mạc Khải Rõ Ràng Hơn
Trong những đề tài học hỏi về Thiên Chúa, chúng ta đã nhiều lần nhắc nhở về đức tin là một đáp ứng đặc biệt từ phía nhân loại đối với lời truyền dạy của Thiên Chúa, Đấng biểu lộ chính Ngài cho tới mạc khải cuối cùng trong Chúa Giêsu Kitô. Hiển nhiên, lời đáp ứng này mang đặc tính nhận thức. Nhận thức tính giúp nhân loại khả dĩ tiếp nhận sự hiểu biết mạc khải mà Thiên Chúa “chia sẻ” với nhân loại qua hình thức tự tri (tự nhận biết).
Sự hiểu biết về Thiên Chúa trong đời này có vẻ như còn phiến diện, hời hợt và bất toàn; nhưng nếu chấp nhận Ngài thì con người có khả tính về sự tham dự vào chân lý đời đời và hoàn toàn; mai mốt đây điều đó sẽ trở thành hiện thực khi con người trực diện với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người “tận hiến tự ngã (chính mình) cho Thiên Chúa” và đáp ứng lại thiên khải thì con người mới hành trình vào chân lý. Sự tham dự này mở đường cuộc sống siêu nhiên mà Chúa Giêsu gọi là “sự sống đời đời” (Jn 17:3), và trong Thư gửi tín hữu Do Thái định nghĩa là “cuộc sống nhờ đức tin”: “người công chính của Ta sẽ sống nhờ đức tin” (Dt 10:38).
Căn tính đức tin
Nếu chúng ta muốn đi sâu vào định nghĩa “đức tin” là gì và lời tuyên xưng “Tôi tin” có nghĩa gì thì điều thiết yếu là chúng ta phải quan tâm đến căn tính đức tin, vì nếu so sánh với kiến thức duy lý về Thiên Chúa qua “các loài thụ tạo” thì vấn đề khác biệt hẳn.
Trước hết, căn tính đức tin cốt ở đặc tính siêu nhiên của nó. Nhờ đức tin, nhân loại dâng lên Thiên Chúa sự đáp ứng “việc Ngài tự khải” và chấp nhận chương trình cứu độ của Ngài mà hành động này hệ tại ở việc tham dự vào bản tính và sự sống linh diệu của chính Thiên Chúa. Sự đáp ứng này dẫn đưa nhân loại vượt xa mọi điều mà nhân loại biết được do khả năng và sức mạnh thuộc bản tính tự nhiên của mình cả về kiến thức lẫn ý chí. Đó là vấn đề nhận biết chân lý vĩnh cửu và là sự toàn vẹn siêu việt những khát vọng về sự thiện và hạnh phúc xuất phát từ ý chí và tâm thức. Và đó cũng là vấn đề “sự sống đời đời.”
Chúng ta đọc trong Hiến Chế Dei Verbum: “Qua thiên khải, Thiên Chúa đã chọn bày tỏ và thông ban chính Ngài và những ý định đời đời theo thánh ý Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại. Nghĩa là Thiên Chúa đã chọn ‘ban cho nhân loại kho tàng vi diệu của Ngài, vượt ra ngoài tầm hiểu biết của con người’” (số 6). Những trưng dẫn trên là từ Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, số 12, của Công Đồng Vatican I nhấn mạnh đặc tính siêu nhiên của đức tin.
Như thế lời nhân loại đáp ứng việc Thiên Chúa tự khải, và đặc biệt là Thiên Chúa khải ngộ cuối cùng trong Chúa Giêsu Kitô được cấu thành cách âm thầm nhờ ánh sáng sức mạnh của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa hoạt động trên bình diện khả năng sâu thẳm trong tâm linh của nhân loại, và theo cách nào đó, trong toàn khối tổng hợp các năng khiếu của con người. Sức mạnh thần linh đó được gọi là ân sủng, đặc biệt là ân sủng đức tin.
Hành động của Chúa Thánh Linh
Vẫn theo Hiến Chế Dei Verbum của Công Đồng Vatican II: “Để tạo niềm tin này, trước hết ân sủng Thiên Chúa và ơn Chúa Thánh Linh hỗ trợ nội tâm, trợ giúp khơi dậy tâm linh và hướng trái tim về Thiên Chúa, mở rộng nhãn quan, ban ‘niềm vui và sự dễ dàng cho mọi người đến với và tin theo chân lý’ (những lời của Công Đồng Orange II mà Công Đồng Vatican I nhắc lại). Chính Chúa Thánh Linh cũng không ngừng kiện toàn đức tin bằng các ân sủng của Ngài để việc hiểu biết mạc khải được thâm sâu hơn nữa” (DV 5).
Như thế, Hiến Chế Dei Verbum đề cập đến đề tài ân sủng đức tin một cách vắn gọn. Tuy nhiên, công thức tổng hợp này đầy đủ và phản ánh giáo lý của chính Chúa Giêsu: “Không một người nào có thể đến được với Thầy ngoại trừ Chúa Cha Đấng phái Thầy đi lôi kéo người đó tới” (Jn 6:44). Chính nhờ tín ân, một cách gián tiếp, Thiên Chúa đã khơi dậy nội tâm và thức tỉnh chủ thể tính của con người. Ân sủng đức tin làm cho nhân loại có khả năng đáp ứng đầy đủ việc Thiên Chúa “tự khải” trong Chúa Giêsu Kitô bằng cách hoàn toàn dâng hiến tự ngã cho Thiên Chúa. Ân sủng này đi trước (hành động đức tin), đánh động, nâng đỡ và hướng dẫn đức tin. Qua ân sủng đức tin, nhân loại trước hết có khả năng “tin vào Thiên Chúa,” và tin cách thực sự. Như thế ơn dự phòng và hợp tác tạo ra “sự hiệp thông” liên bản vị và siêu nhiên mà sự hiệp thông đó là cơ cấu sống động của đức tin. Nhờ việc hiệp thông này, nhân loại tin vào Thiên Chúa, chia sẻ “sự sống đời đời”: “Người ấy biết Chúa Cha và Đấng mà Ngài đã phái đi, là Chúa Giêsu Kitô” (tc. Jn 17:3) và nhờ đức bác ái yêu thương mà trở nên thân bằng với Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô (tc. Jn 14:23; 15:15).
Nguồn linh thông siêu nhiên
Ân sủng đức tin là nguồn mạch siêu nhiên soi sáng “khơi mở nhãn quan,” và đặc biệt bao gồm lãnh vực nhận thức của con người và tập trung vào lãnh vực đó. Nhờ ân sủng đức tin nhân loại mặc nhiên chấp nhận toàn thể nội dung thiên khải. Mạc khải này bao gồm các mầu nhiệm về Thiên Chúa và các yếu tố của chương trình cứu độ nhân loại. Nhưng đồng thời, khả năng hiểu biết của nhân loại qua hành động ân sủng đức tin hướng về hiểu biết sâu xa hơn mãi những điều đã được mạc khải. Sự hiểu biết này được dự phóng tới toàn chân như Chúa Giêsu đã hứa (tc. Jn 16:13), hướng về “sự sống vĩnh cửu.” Nỗ lực phát triển sự hiểu biết Thiên Chúa và sự sống đời đời được ơn Chúa Thánh Linh nâng đỡ, cách đặc biệt những ơn kiện toàn kiến thức siêu nhiên về đức tin: tri thức, thấu triệt, và minh triết, v.v.
Theo bản phác họa vắn gọn trên đây thì sự sống siêu nhiên là căn tính đức tin. Qua đức tin, việc Thiên Chúa “tự khải” trở nên nguồn ánh sáng siêu nhiên và bám rễ vào căn bản sự khôn ngoan của nhân loại. Nhờ đức tin, nhân loại tham dự tùy theo phạm vi của mình, nhưng ở mức độ thiên hiệp (divine communion [hiệp thông thần linh]), vào sự hiểu biết mà từ đó Thiên Chúa biết Ngài đời đời và mọi thực tại khác nơi Ngài.
Buổi gặp chung ngày 10 tháng Tư, 1985