Nhảy đến nội dung

09 Chương 9

  • T2, 20/01/2025 - 02:14
  • admin1

Chương 9.

Nhờ Đức Tin Nhân Loại Chấp Nhận Cách Tự Do Tuyệt Đối

Các Chân Lý Hàm Chứa Trong Mạc Khải Của Thiên Chúa

Nguồn gốc đức tin đặt trên căn bản tri thức mang đặc tính siêu nhiên phát xuất từ mạc khải của Thiên Chúa và ơn Chúa Thánh Linh. Hẳn nhiên cũng nên xác quyết rằng đức tin có căn tính nhân loại. Chúng ta tìm thấy trong đức tin mọi trọng điểm hữu lý của sự xác tín đối với chân lý thiên khải. Lòng xác tín hoặc chân tín thích ứng cách hoàn hảo với phẩm giá con người là sinh linh có lý trí và tự do.

Tuyên Ngôn Dignitatis Humanae, về Tự Do Tôn Giáo, của Công Đồng Vatican II soi sáng vấn đề trên đây. Sau đây là một đoạn trích dẫn từ Tuyên Ngôn này:

“Một trong những điểm chính yếu của học thuyết Công Giáo là con người phải được tự do đáp lại lời Thiên Chúa trong đức tin: vì thế không ai bị cưỡng bách theo giữ đức tin Kitô Giáo trái với ý muốn của người ấy. Học thuyết Kitô Giáo được chứa đựng trong lời Thiên Chúa và hằng được các Giáo Phụ giảng dạy. Từ bản chất, đức tin là một hành vi tự do. Dẫu rằng được Chúa Kitô Đấng Cứu Thế giải thoát, và nhờ Chúa Giêsu Kitô mà được gọi làm dưỡng tử của Thiên Chúa, con người cũng không thể tin theo Thiên Chúa Đấng tự khải, nếu sau khi được Chúa Cha lôi cuốn, mà họ không tin phục Thiên Chúa trong tự do và hợp lý. Vì thế, trong lãnh vực tôn giáo, mọi thứ cưỡng bách về phía con người phải được loại trừ mới thực sự phù hợp với bản chất đức tin” (DH 10).

“Thiên Chúa kêu gọi con người phụng thờ Ngài trong tinh thần và chân lý. Lời kêu gọi đó ràng buộc lương tâm con người, nhưng không hề cưỡng bách. Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá con người mà chính Ngài đã tạo dựng, con người phải được hướng dẫn theo sự phán đoán của mình, và con người phải được vui hưởng tự do. Quả thật, Chúa Kitô là Thầy và là Chúa chúng ta” (This truth appears as its height in Christ Jesus) (DH 11).

Chúa Kitô làm chứng chân lý 

Văn kiện công đồng (Hiến chế Dignitatis Humanae) biểu thị đường lối mà Chúa Kitô theo đuổi để “đánh thức dậy và tăng cường niềm tin nơi các người nghe thuyết giảng” mà không có một hình thức cưỡng ép nào cả. Ngài làm chứng cách triệt để cho chân lý Phúc Âm qua thánh giá và phục sinh, “Ngài khước từ áp đặt chân lý bằng bạo lực đối với những người chống lại chân lý ... Vương quyền của Ngài ... được thiết lập bằng việc rao giảng chân lý và nghe theo chân lý, và được trải rộng bởi tình yêu mà từ đó Chúa Kitô, treo trên thánh giá, lôi kéo mọi người đến với chính Ngài” (DH 11). Chúa Kitô cũng truyền lại phương pháp thuyết phục chân lý Phúc Âm cho các tông đồ.

Chính vì sự tự do chấp nhận, mà đức tin (điều chúng ta diễn tả bằng từ ngữ “tuyên tín” (credo) mang tính cách chân thực và độc đáo của nhân loại, ngoài những đặc tính thần linh. Từ ngữ “tuyên tín” diễn tả sự kiên tín đối với chân lý mạc khải, nhờ hành động của ý chí tự do. Sự tự nguyện phát sinh từ cấu trúc đức tin. Tất nhiên không hàm ngụ đức tin thì tùy theo sở thích và thái độ hững hờ cố hữu có thể được biện minh. Sự tự nguyện này chỉ chuyên chở ý nghĩa chính yếu là nhân loại được mời gọi tự do đáp ứng gắn bó trọn vẹn con người mình với lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa.

Khi đề cập vấn đề tự do tôn giáo, trong Hiến Chế Dignitatis Humanae, Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh cách rõ ràng: đức tin là một vấn đề lương tâm.

“Căn cứ theo vấn đề phẩm giá, con người được ban cho lý trí và ý chí tự do nên tự ý thức trách nhiệm về bản thân mình. Vì thế, do bản tính tự nhiên thúc đẩy, cũng như do bổn phận luân lý đòi buộc, con người có khuynh hướng tìm kiếm chân lý, nhất là chân lý siêu hình. Con người tự ràng buộc tin theo chân lý đã nhận biết, và thực hiện nhân sinh quan theo những đòi hỏi của chân lý” (DH 2). Nếu đó là luận chứng căn bản đặt trọng tâm vào quyền tự do tín ngưỡng, thì cũng tự do này đã được công nhận một cách rộng rãi và là động lực quy hướng trong đời sống xã hội.

Trên quan điểm tự quyết, người ta nhận thức hai điều:  thứ nhất “mỗi người tự trách nhiệm thế nên họ có quyền tìm kiếm chân lý tôn giáo để qua việc sử dụng những phương tiện thích hợp, họ có thể khôn ngoan đưa ra những nhận định theo lương tâm vốn chân thành và đúng thực.

Thứ hai “tuy nhiên, chân lý phải được tìm kiếm theo nhân phẩm và bản tính xã hội của con người. Việc tìm kiếm này được thực hiện hoàn toàn tự do nhờ trợ giúp của lời giảng dạy hoặc giáo huấn, truyền thông và đối thoại. Trong tiến trình này người ta trao đổi cho nhau chân lý họ đã khám phá được, hoặc tư tưởng họ tìm ra, để giúp đỡ nhau tìm kiếm chân lý. Lại nữa, một khi chân lý đã được tìm thấy, thì tự mỗi người có bổn phận xác tín và tuân theo” (DH 3).

Trong những tư tưởng trên, chúng ta tìm thấy một đặc tính rất đáng chú ý của lời chúng ta “tuyên tín” (credo). Đó là một hành động sâu sắc biểu thị con người tương ứng với nhân phẩm. Sự tương ứng này được mô tả trong nội dung chân lý nhờ tự do quy ngã và trách nhiệm lương tâm của người tín hữu.

Căn cứ vào Tuyên Ngôn Dignitatis Humanae của Công Đồng về Tự Do Tôn Giáo, giáo thuyết nói trên cũng nêu lên tầm quan trọng của hệ thống huấn giáo, vì hai lý do: thứ nhất, huấn giáo giúp hiểu biết chân lý về chương trình yêu thương của Thiên Chúa gồm trong thiên khải. Thứ nhì, là đồng hóa hơn nữa với chân lý đã biết và được đức tin chấp nhận.

 Buổi gặp chung ngày 17 tháng Tư, 1985