Nhảy đến nội dung

14 Chương 14

  • T4, 22/01/2025 - 18:10
  • admin1

Chương14.

Những Tương Quan Với Các Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo

      

Trên thế giới, đức tin Kitô Giáo tiếp xúc với nhiều tôn giáo được cảm hứng do các vị tổ sư khai sáng và truyền thống khác ngoài dòng mạc khải. Chúng ta cần phải xem xét thực chất các tôn giáo này. Công Đồng dạy, “Nhân loại mong đợi nơi các tôn giáo giải đáp cho những điều bí ẩn không lý giải được về thân phận con người, mà xưa nay vẫn làm cho tâm hồn họ phải xao xuyến sâu xa: Con người là gì? Cuộc đời chúng ta có ý nghĩa và mục đích gì? Sự thiện là gì? Tội ác là gì? Nguyên nhân và mục đích đau khổ là gì? Đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đích thực? Chân lý của sự chết, việc phán xét và thưởng phạt sau khi chết là gì? Sau cùng, điều huyền nhiệm tối hậu khôn tả vẫn bao trùm cuộc sống chúng ta là gì, chúng ta phát xuất từ đâu và đi về đâu?” (NA 1).

Với sự kiện này Công Đồng Vatican II, trong Tuyên Ngôn Nostra Aetate (Liên lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo khác ngoài Kitô Giáo), đã bắt đầu nghiên cứu giải quyết những mối liên quan của Giáo Hội với các tôn giáo khác ngoài Kitô Giáo. Ý nghĩa quan trọng mà Công Đồng đề cập tới là phát biểu rộng rãi về vấn đề này. Tin theo học thuyết Kitô Giáo nghĩa là đáp ứng điều Thiên Chúa tự khải, trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô. Nhưng đặc biệt là trong thế giới ngày nay, niềm tin này không vượt ra khỏi tương quan tri thức với các tôn giáo khác ngoài Kitô Giáo. Những tôn giáo ngoài Kitô Giáo đều mô tả theo một cách nào đó “điều mà nhân loại quan niệm đồng thể và kết hợp lại với nhau trong tình bằng hữu” (NA 1). Giáo Hội không tránh né mà đúng hơn là ước vọng kết hợp mối tương quan này.

Trên căn bản hiệp thông rộng rãi có giá trị tích cực về tinh thần và luân lý thì điều tiên quyết phải nêu lên là mối tương quan về “niềm tin” giữa các “tôn giáo” nói chung, mà đó là yếu tố đặc thù về sự hiện hữu của nhân loại trong trần thế. Nơi tôn giáo, con người tìm kiếm giải đáp cho các nghi vấn kể trên theo những cách thức khác nhau, tạo ra mối liên quan giữa cá thể với “mầu nhiệm bao trùm toàn thể nhân loại.” Nhiều tôn giáo khác nhau ngoài Kitô Giáo diễn tả cách đặc biệt vấn đề niềm tin dựa vào con người (người ta chủ động), trái lại niềm tin Kitô Giáo đặt trọng điểm vào mạc khải nơi Thiên Chúa. Như thế bỏ qua một vài một vài dị biệt, vẫn có mối tương đồng căn bản giữa các tôn giáo.

Vấn đề tri thức Thượng Đế trong tôn giáo

Dầu rằng có những dị biệt, nhưng Tuyên Ngôn Nostra Aetate cố gắng nhấn mạnh những điểm tương đồng. Tuyên Ngôn cho biết: “Xưa nay, nơi nhiều dân tộc khác nhau người ta nhận biết một cảm thức về quyền lực tiềm ẩn vận động vô hình trong vòng chuyển biến của sự vật và qua các biến cố lịch sử nhân loại; đôi khi người ta cũng nhìn nhận Đấng Tối Cao hay Đấng Từ Phụ. Cảm thức và sự nhìn nhận này thấm vào đời sống nhân loại với ý nghĩa tôn giáo sâu xa” (NA 2). Từ quan điểm này, chúng ta có thể nhớ lại ngay từ những thế kỷ đầu, các tư tưởng gia Kitô Giáo mừng rỡ khi thấy sự hiện diện khôn tả của Thánh Ngôn (Lời Thiên Chúa) trong tâm trí nhân loại qua các thành tựu văn hóa và văn minh. Sở dĩ có sự kiện đó mà thánh Justin đã nói (II, 13,3): “Thực ra nhờ hạt giống bẩm sinh về Logos (Thánh Ngôn [Word] ) được gieo sẵn trong họ, nên các văn gia đã thoáng nhìn thực tại một cách mờ mờ ảo ảo”. Cùng với các Giáo Phụ khác, thánh Justin không ngần ngại nhìn nhận môn triết học là một thứ “tiểu mạc khải.”

Nhưng ở đây chúng ta cần phải minh định một số thuật ngữ. Như chúng ta đã thấy: “cảm thức tôn giáo” là tri thức tôn giáo về Thiên Chúa nơi phần con người. Về phương diện thuần lý, con người có thể hiểu biết bằng các năng khiếu tự nhiên của mình. Đồng thời sự hiểu biết của con người khác với (sự) suy đoán bằng lý lẽ tinh khôn của các triết gia và tư tưởng gia về đề tài Thiên Chúa hiện hữu. Như vậy sự nhận biết về Thiên Chúa liên quan đến toàn thể con người và trở nên sức sống trong con người. Điều quan trọng hơn cả là sự hiểu biết thuần lý của con người phân biệt với niềm tin Kitô Giáo, vì niềm tin Kitô Giáo là tri thức đặt trọng tâm vào mạc khải, nhất là sự đáp ứng có ý thức đối với ân sủng Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cha (ĐTC GPh II) nhắc lại rằng sự phân biệt cần thiết này không loại bỏ sự đồng nhất và tương hợp những giá trị tích cực. Vì vậy, theo Công Đồng điều này không cản trở chúng ta nhìn nhận các tôn giáo khác ngoài Kitô Giáo. Công Đồng cũng giới thiệu một cách vắn tắt hai tôn giáo: Phật Giáo và Ấn Giáo. Các tôn giáo này “cố gắng đáp lại sự thao thức của trái tim nhân loại, mỗi tôn giáo theo cách riêng của mình, bằng cách đề ra ‘những phương pháp,’ gồm có những giáo thuyết, những qui luật sống, và nghi lễ tế tự” (NA 2).

Tuyên ngôn cũng minh xác: “Giáo Hội Công Giáo không phủ nhận những gì chân thực và thánh thiện nơi các tôn giáo này. Giáo Hội thành thực kính trọng những cách thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết, mặc dầu có nhiều khía cạnh khác biệt với những điều Giáo Hội chủ trương và duy trì, nhưng những tôn giáo đó cũng thường phản chiếu một tia sáng chân lý chiếu soi mọi người” (NA 2). Vị tiền nhiệm của cha, Đức Phaolô VI, với hồi ức sung sướng, đã nhấn mạnh cách đặc biệt vị thế Giáo Hội về vấn đề này trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi. Sau đây đan cử một vài lời của ngài trích từ các văn kiện của các Giáo Phụ xưa: “Họ (các tôn giáo ngoài Kitô Giáo) mang trong nội tâm tiếng vọng của hằng ngàn năm tìm kiếm Thiên Chúa, một theo đuổi tìm tòi tuy chưa hoàn toàn nhưng đã tạo ra một gia sản đầy ấn tượng gồm các tài liệu tôn giáo sâu sắc. Các tôn giáo đó đã từng giảng dạy nhiều thế hệ cách cầu nguyện và thấm nhuần các ‘hạt giống Thánh Ngôn’ và thực sự ‘chuẩn bị dẫn nhập vào Phúc Âm’” (EN 53).

Vì thế Giáo Hội khuyến khích các Kitô hữu và Kitô hữu Công Giáo “qua đối thoại và hợp tác với tín đồ các tôn giáo khác, thực hiện với lòng can đảm và tình yêu mà vẫn là nhân chứng cho niềm tin và cuộc sống Kitô Giáo. Các Kitô hữu và Kitô hữu Công Giáo nhìn nhận, bảo toàn và cổ động những thiện ích thiêng liêng và luân lý, cũng như những giá trị văn hóa và xã hội được đóng góp kể cả những người theo các tôn giáo khác” (NA 2).

Tin theo truyền thống Kitô Giáo

Chính vì những lẽ trên chúng ta có thể nói tin theo truyền thống Kitô Giáo có nghĩa là chấp nhận, tuyên xưng và truyền bá Chúa Kitô Đấng là “đường đi, sự thật và sự sống” (Jn 14:6), biểu thị rõ ràng hơn các chỉ dẫn và suy tư của các tôn giáo khác.

Trong số các tôn giáo ngoài Kitô Giáo, tôn giáo của những người theo ông Mohammed (Hồi Giáo) đáng được lưu ý đặc biệt vì đặc tính độc thần trong việc nối kết với niềm tin của ông Abraham, mà thánh Phaolô mô tả là “tổ phụ ... đức tin (Kitô Giáo) chúng ta” (tc. Rom 4:16).

Những tín hữu Hồi Giáo “thờ Thiên Chúa duy nhất, tự hữu và hằng sống; Đấng toàn năng và hay thương xót; Đấng Tạo Thành trời đất và từng đối thoại với con người. Tín đồ Hồi Giáo cố gắng chuyên tâm quy phục Thiên Chúa kể cả những phán quyết khó hiểu của Ngài như ông Abraham đã từng tôn phục Thiên Chúa” (NA 3). Điều cũng quan trọng là chính những người theo ông Mahommed tôn kính Chúa Giêsu: “Mặc dầu họ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng họ tôn kính Ngài như một ngôn sứ. Họ cũng tôn kính Đức Maria, Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu; đôi khi họ cầu khẩn Người cách sốt sắng. Thêm nữa, họ chờ đợi ngày chung thẩm lúc Thiên Chúa thưởng phạt mọi người khi sống lại. Sau cùng, họ quí trọng đời sống luân lý và tôn thờ Thiên Chúa cách đặc biệt bằng cầu nguyện, làm việc từ thiện và ăn chay” (NA 3).

Trong số các tôn giáo ngoài Kitô Giáo, Giáo Hội có liên quan cách đặc biệt với những người tuyên xưng đức tin theo Cựu Ước, miêu duệ của các tổ phụ và các ngôn sứ Israel. Công Đồng nhắc lại “sợi dây ràng buộc linh thiêng giữa dân Tân Ước và con cháu tổ phụ Abraham” (NA 4).

Mối tương quan này, chúng ta đã nói tới trong bài giáo lý riêng về Cựu Ước, và liên hệ này đưa chúng ta tới gần với người Israel, lần nữa được nhấn mạnh trong Tuyên Ngôn Nostra Aetate (Tuyên Ngôn về Liên Lạc của Giáo Hội với Các Tôn Giáo ngoài Kitô Giáo) khi đề cập tới đức tin chung thuở ban đầu, điều đã thấy nơi các tổ phụ, ông Moses và các ngôn sứ. Giáo Hội “tuyên xưng tất cả những người tin vào Chúa Kitô là con cháu tổ phụ Abraham theo đức tin bao hàm trong cũng lời kêu gọi chính vị tổ phụ này, ... Vì thế Giáo Hội không thể quên rằng Giáo Hội đã nhận được mạc khải Cựu Ước qua dân tộc mà xưa kia Thiên Chúa đã kết ước do lòng thương xót khôn tả của Ngài” (NA 4). “Về nguồn gốc nhân loại của Ngài, Chúa Kitô” (Rom 9:5) là Con của Đức Trinh Nữ Maria, và các tông đồ của Chúa cũng đều là con cái Israel. Toàn bộ di sản tinh thần này, chung cho các Kitô hữu và người Do Thái (Jews), tạo thành một nền tảng tương quan tự nhiên. Mặc dầu phần đông con cái Israel “đã không nhận lãnh Phúc Âm.” Vả lại Giáo Hội (cùng với các ngôn sứ và Tông Đồ Phaolô) “chờ đợi tới ngày khi toàn thể mọi dân tộc sẽ tuyên xưng Chúa trong một tiếng nói duy nhất và ‘đồng một lòng phụng thờ Ngài’ (Zeph 3:9). Ngày đó chỉ một mình Thiên Chúa biết” (NA 4).

Như quí anh chị em biết, sau Công Đồng Vatican II một văn phòng thường trực đặc trách liên lạc với các tôn giáo khác ngoài Kitô Giáo đã được thành lập. Đức Phaolô VI đã nhìn thấy việc liên lạc này là một trong những phương cách “đối thoại về ơn cứu độ” mà Giáo Hội có nhiệm vụ thực thi với tất cả mọi người trong thế giới ngày nay (tc. Thông Điệp Ecclesiam Suam, AAS 56, 1964, 654). Tất cả chúng ta đều được kêu gọi cầu nguyện và hoạt động để những mối tương quan này có thể được vững chắc và mở rộng, làm lan tỏa ngày một bành trướng hơn nữa lòng khao khát đối với sự hiểu biết và hợp tác, tìm kiếm theo đuổi hỗ tương đạt tới chân lý viên mãn trong bác ái và hòa bình. Đức tin đã thôi thúc chúng ta thi hành trách vụ này.  

Buổi gặp chung ngày 5 tháng Sáu, 1985