Nhảy đến nội dung

20 Chương 20

  • T4, 22/01/2025 - 18:27
  • admin1

Chương 20.

Khoa Học Gia và Thiên Chúa

     

Một ý niệm phổ thông vẫn còn tồn đọng là các khoa học gia nói chung thường là những người theo phái bất khả tri và khoa học đưa người ta xa Thiên Chúa. Ý kiến này đúng hay không?

Những tiến bộ siêu đẳng của khoa học, đặc biệt là trong hai thế kỷ mới đây của chúng ta, đã nhiều lần dẫn tới niềm tin cho rằng khoa học tự nó có khả năng trả lời mọi điều người ta nghi vấn và giải quyết hết mọi vấn đề. Một số người kết luận bây giờ người ta không còn cần đến Thiên Chúa nữa. Đối với những người này, niềm tin vào khoa học đã thay thế niềm tin vào Thiên Chúa.

Có người nói rằng người ta phải chọn lựa giữa đức tin và khoa học: hoặc người ta theo điều này hoặc tin ở điều kia. Người nào dấn bước vào khoa học thì không còn cần đến Thiên Chúa; trái lại, người nào tin vào Thiên Chúa thì không thể là một khoa học gia triệt để, vì giữa khoa học và đức tin có sự xung khắc bất khả dung hòa.

Không mâu thuẫn với đức tin   

Công Đồng Vatican II biểu lộ một niềm kiên tín rất khác biệt. Hiến Chế Gaudium et Spes (Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay) minh xác: “Nếu việc khảo sát thực nghiệm có phương pháp thuộc mọi ngành khảo cứu tiến hành một cách khoa học thuần túy và theo các tiêu chuẩn luân lý thì khoa học không bao giờ trái với đức tin cả. Vì các thực tại trần thế và những điều liên quan tới đức tin đều cùng một Thiên Chúa mà ra. Tuy nhiên những người cố gắng nghiên cứu các bí ẩn của sự vật với lòng khiêm tốn và kiên nhẫn đều được Thiên Chúa hướng dẫn dù rằng họ không nghĩ tới điều đó. Ngài giữ cho muôn loài hiện hữu, và ban cho chúng bản tính riêng theo mỗi loại” (GS 36).

Xưa nay có nhiều khoa học gia giầu kinh nghiệm về nghiên cứu nhân bản đã tin vững vàng và thành thật vào Thiên Chúa. Năm mươi năm trước, một cuộc khảo sát thực hiện nơi 398 vị trong số những khoa học gia thời danh nhất khắp thế giới, thì chỉ có 16 học giả tự nhận là vô tín ngưỡng, 15 vị theo thuyết bất khả tri, còn 367 vị là tín hữu (tc. A. Eymieu, La Part des croyants dans les progrès de la science, sixth ed., Perrin 1935, p. 274).

Điều thích thú và hữu ích hơn nữa là nhiều khoa học gia xưa nay nhận thấy môn khoa học thực nghiệm cần được thực hiện với lý luận triệt để. Như thế, các thí nghiệm ấy không những chỉ tương đồng mà còn hội nhập một cách hoan hỉ trong việc nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Qua những công trình nghiên cứu thường song hành với các nỗ lực khoa học dưới hình thức một thứ ký mục tâm linh, chúng ta nhận thấy điểm gặp nhau của hai yếu tố đức tin và khoa học cách dễ dàng. Cuộc khảo cứu, dầu lớn dầu nhỏ, mà tiến hành cách tường tận, luôn mở đường cho những nghi vấn thêm nữa trong một tiến trình vô tận, mà tiến trình này cho thấy cách chắc chắn một sự vĩ đại bao la, một sự hài hòa, và một chung cuộc không thể giải thích chỉ theo những điều kiện nhân quả hoặc kết quả khoa học. Ngoài ra cũng cần phải thêm một nghi vấn có tính cách duy lý hơn nữa về một nan đề hoặc về một Đấng có khả năng thỏa mãn mọi nhu cầu bên trong nghĩa là đãi lọc tiến bộ khoa học thêm sáng tỏ thay vì bưng bít đi.

Hoan hỉ nhìn nhận

Thật vậy tiến trình xác quyết tôn giáo không thể hoàn thành tự thân (per se) chỉ bằng phương pháp khoa học thực nghiệm. Nhưng chính nhờ các nguyên tắc triết học căn bản như luật nhân quả, chung cuộc và lý luận hoàn chỉnh, mà khoa học gia sử dụng khi nghiên cứu, tiếp xúc với sự sống và thực tại hằng ngày. Dĩ nhiên, cương vị của khoa học gia như người lính canh đầu tiên nhìn thấy những hỗn hợp bao la chung với sự hài hòa lạ lùng của thực tại trong thế giới ngày nay, biến khoa học gia trở nên nhân chứng đặc quyền về tính cách khả tín của tôn giáo. Khoa học gia có thể trình bày nhận định về siêu việt tính, mà không làm hại đến tự lập tính và cứu cánh tính của công trình khảo cứu, trái lại thúc đẩy liên tục tiêu hướng khoa học trong kinh nghiệm siêu việt giao thoa với huyền nhiệm nhân loại.

Nếu chúng ta nhìn nhận rằng những chân trời khảo nghiệm ngày nay được mở rộng đặt ra nhiều nghi vấn quan trọng liên quan đến quyền sử dụng các thành quả khoa học, đặc biệt là về nguồn gốc sự sống thì hẳn là chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy các khoa học gia ngày càng gia tăng cầu cứu đến các tiêu chuẩn luân lý đích thực. Nhờ đó có thể giải phóng con người khỏi sự ngoan cố độc đoán. Và thử hỏi xem rằng ai có thể thiết lập được những tiêu chuẩn luân lý trong đó phẩm giá con người được săn sóc chu đáo và thăng tiến, nếu không phải là Thiên Chúa?

Thực ra Kitô Giáo không coi những tuyên ngôn của thuyết vô thần hoặc thuyết bất khả tri là khoa học duy lý. Nhưng Kitô Giáo cũng dứt khoát không chấp nhận những minh xác về Thiên Chúa mà những khuynh hướng duy lý thiển cận đề ra. 

Những lý Lẽ khẳng định

Điều hết sức tuyệt vời là việc phổ biến những lý luận mà nhiều khoa học gia xác quyết sự hiện hữu của Thiên Chúa một cách nào đó; và nhìn thấy căn do sự liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, giữa người và người; con người với những vấn đề trọng đại và những giá trị tối thượng của sự sống cần bảo tồn. Thường thường sự tĩnh lặng, suy niệm, tưởng tượng sáng tạo, an lạc từ bỏ vật chất, khám phá giá trị xã hội, và trái tim thuần khiết là nhân tố đưa đường cho các khoa học gia nhận thức ý nghĩa của vũ trụ mà người thường không quan tâm đến nhưng họ vẫn tiến bước trong tin yêu hướng về chân lý.

Mong rằng lời trích dẫn sau đây của một khoa học gia người Ý đã khuất bóng mấy năm trước, ông Enrico Medi, đã đầy đủ lắm rồi. Tại một Đại Hội Giáo Lý Quốc Tế ở Rome năm 1971, khoa học gia Enrico Medi phát biểu: “Khi tôi nói với một người trẻ tuổi: Nhìn kìa, có ngôi sao mới, một thiên hà, một neutron star cách xa 100 triệu năm ánh sáng, lại còn những protons, electrons, neutrons và mesons được tìm thấy ở trên trời y hệt những vật liệu trong chiếc microphone này. ... Bản thể tính loại trừ xác xuất tính. Cái đồng dạng chưa phải là cái giống hệt. ... Như vậy hẳn nhiên phải có một nguyên lý bên ngoài không gian và thời gian là chủ thể của sự hữu mới cấu tạo được sự hữu giống nhau như thế. Và đấy chính là Thiên Chúa. ... 

“Phát biểu theo khoa học, ông Medi nói tiếp rằng: Sự hữu vẫn hằng tồn tại dù rằng đã tạo thành vạn vật đồng dạng xa nhau hàng tỉ năm ánh sáng. Và con số những phân tử li ti y hệt như nhau trong vũ trụ là 10 lũy thừa 85.... Vậy chúng ta có muốn thưởng thức bài ca các thiên hà không nào? Nếu là thánh Phanxicô Assisi chúng ta sẽ nói: Hỡi những thiên hà trên các tầng trời bao la, hãy chúc tụng Chúa của tôi, vì Ngài toàn năng và tốt lành. Hỡi những atoms, Hỡi những protons, Hỡi những electrons, Hỡi những tiếng hót của muôn chim, Hỡi tiếng rì rào của lá cây và của gió, hãy là một lời kinh nguyện cầu nơi bàn tay con người, hát lên lời chúc tụng dâng lên Thiên Chúa!” (Acts of the Second International Catechetical Congress, Rome, September 20-25, 1971; Rome, Studium, 1972, pp. 449-450).    

 Buổi gặp chung ngày 17 tháng Bảy, 1985