Nhảy đến nội dung

22 Chương 22

  • T4, 22/01/2025 - 18:29
  • admin1

Chương 22.

Thiên Chúa Tự Khải  Là Đấng Hằng Hữu

      

Khi tuyên tụng “Tôi tin kính Thiên Chúa” thì trước nhất chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa hằng hữu. Chúng ta đã bàn về chủ đề này trong một số bài giáo lý thuộc chu kỳ trước về ý nghĩa những lời “Tôi tin.” Theo lời dạy của Giáo Hội: nếu không (có) thành kiến, lý trí nhân loại thuần túy có thể đạt tới việc nhận biết chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Những đoạn Sách Khôn Ngoan (tc. Kn 13:1-9) và Thư gửi giáo đoàn Roma (tc. Rom 1:19-20), chúng ta đã trích dẫn trước kia, đã làm chứng điều này. Những lời đó nói về sự hiểu biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành (hoặc Đệ Nhất Nguyên Lý). Chân lý này cũng xuất hiện nơi những trang khác của Sách Thánh. Tới một cách thái nào đó, Thiên Chúa vô hình trở nên “hữu hình” qua những công trình của Ngài.

 “Các tầng trời tôn xưng vinh quang Thiên Chúa,

và không trung biểu lộ kỳ công của tay Ngài.

Ngày này kể chuyện cho ngày tới

và đêm này kể lại sứ điệp cho đêm sau” (Tv 19:2-3).

Bài thi ca vũ trụ Tv 19:2-3 trên đây về sự hân hoan của các thụ tạo là một ca khúc chúc tụng Thiên Chúa Đấng Tạo Thành. Chúng ta có thêm một đoạn khác nữa:

“Lạy Chúa, công trình của Chúa thiên hình vạn trạng!

Chúa tạo thành tất cả thật khôn ngoan;

địa cầu tràn đầy mọi tạo vật của Ngài” (Tv 104:24).

“Chính Ngài đã dùng quyền năng tạo thành trái đất,

do sự khôn ngoan Ngài tạo dựng thế giới,

và do sự thông suốt Ngài trải rộng các tầng trời ...

Mọi người đều ngu xuẩn và chẳng biết chi” (Jer 10:12,14).

“Ngài đã làm mọi sự tốt đẹp đúng thời đúng tiết ...

Tôi biết mọi sự Chúa làm đều tồn tại đời đời;

không thứ gì có thể thêm vào, hoặc lấy bớt đi”                       (Gv 3:11,14).

Trên đây chỉ là một vài đoạn mà trong đó các tác giả được linh ứng đã dùng hình ảnh thế giới thời các ngài để diễn tả chân lý tôn giáo về Thiên Chúa Đấng Tạo Thành. Đây thực là một hình ảnh tiền-khoa-học, nhưng chân thực theo tính cách tôn giáo và thi ca tuyệt vời. Nhờ phát triển về vũ trụ quan học (vũ trụ quan khoa học và triết học), hình ảnh đầy ý nghĩa và hữu hiệu đó có sẵn cho mọi người thời đại chúng ta. Tuy nhiên đối với những người không thành kiến và hành động vô tư thì vấn đề còn kỳ diệu hơn nữa.

Những điều kỳ lạ mà nhiều ngành khoa học chuyên biệt khác nhau cho chúng ta thấy về con người và vũ trụ, về thế giới vi mô và vĩ mô, về cấu trúc bên trong sự vật và những sâu thẳm tâm linh con người, tất cả đều minh xác lời các tác giả Sách Thánh, dẫn chúng ta nhìn nhận sự hiện hữu của Đấng Thượng Trí đã tạo dựng và an bài vũ trụ.

Lời tuyên tụng “Tôi tin kính Thiên Chúa” trước tiên nói đến Đấng đã mạc khải chính Ngài. Thiên Chúa cho biết chính Ngài là Đấng hằng hữu. Chỉ có một người  (vị) thực sự hiện hữu mới có thể cho biết về chính mình. Một cách hiểu biết nào đó thì chính mạc khải chỉ mới nói phần nào và gián tiếp về vấn đề Thiên Chúa hiện hữu. Lời tuyên tín không trình bày sự hiện hữu của Thiên Chúa như là một vấn đề thẩm quyền. Như chúng ta đã nói: Sách Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền minh xác khả năng hiểu biết Thiên Chúa đôi phần nhờ hỗ trợ của lý trí (tc. Kn 13:1-9; Rom 1:19-20; Vatican I, DS 3004; Vatican II, DV 6). Cách gián tiếp, lời minh xác này bao gồm định đề hiểu biết về sự hiện hữu của Thiên Chúa nhờ đức tin: đức tin chúng ta diễn tả bằng những lời “Tôi tin kính Thiên Chúa” có đặc tính của lý trí mà lý luận có thể khảo sát. “Tôi tin, nên tôi có thể hiểu,” cũng như “Tôi hiểu, nên tôi có thể tin” - đây là con đường từ đức tin đến thần học.

Khi chúng ta tuyên tụng “Tôi tin kính Thiên Chúa” thì những lời đó xác thực là “lời tuyên tín.” Bằng lời chúng ta tuyên tín, chúng ta đáp dâng lại cho Thiên Chúa Đấng đã mạc khải về chính Ngài. Do việc tuyên tín chúng ta trở nên những người chia sẻ chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải, và bày tỏ chân lý này là nội dung niềm xác tín của chúng ta. Thiên Chúa Đấng tự khải không những chỉ cho chúng ta biết Ngài hằng hữu, mà cũng cho chúng ta khả năng biết Ngài là AI, và cũng biết Ngài như thế nào. Vì thế việc Thiên Chúa tự khải dẫn chúng ta đến câu hỏi về bản thể Thiên Chúa: Thiên Chúa là AI ?

Ở đây chúng ta có thể nhắc đến biến cố mà Phúc Âm kể trong Sách Xuất Hành (Xh 3:1-14) là ông Moses nhìn thấy một hiện tượng khác thường khi đang chăn cừu gần Núi Horeb. “Ông nhìn, và ngạc nhiên, bụi cây đang rực lửa, nhưng bụi cây không bén cháy” (Xh 3:2). Ông đến gần và “Thiên Chúa từ trong bụi cây (đang rực lửa) gọi ông, ‘Moses, Moses!’ Và ông đáp, ‘Lạy Chúa, con đây.’ Liền đó Thiên Chúa phán, ‘Ngươi đừng tới gần; hãy bỏ dép ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.’ Và Thiên Chúa phán, ‘Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob.’ Và ông Moses che mặt, vì ông không dám nhìn Thiên Chúa” (Xh 3:4-6).

Biến cố mô tả trong Sách Xuất Hành trích dẫn trên đây là một “cuộc thần hiển,” một cuộc hiển lộ của Thiên Chúa trong một dấu hiệu khác thường. Trong số những lần thần hiển ghi trong Cựu Ước, lần này đặc biệt đáng chú ý vì là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Một cuộc thần hiển không phải là một mạc khải trực tiếp của Thiên Chúa, mà chỉ là một biểu lộ sự hiện diện đặc biệt của Ngài. Trong trường hợp này, sự hiện diện của Thiên Chúa được nhận biết cả bằng hai phương tiện: lời nói từ trong bụi cây rực lửa phát ra, và chính bụi cây rực lửa nhưng không bén cháy.

Thiên Chúa mạc khải cho ông Moses sứ mệnh Ngài định trao cho ông. Ông Moses phải cứu dân Israel thoát ách nô lệ ở Ai Cập (Egypt) và dẫn họ về đất hứa. Thiên Chúa hứa ban cho ông Moses ơn trợ giúp uy quyền của Ngài để ông thi hành sứ mệnh của mình: “Ta sẽ ở với con.” Khi đó ông Moses nói với Thiên Chúa,”Nếu con đến với dân Israel và nói với họ, ‘Thiên Chúa của cha ông của anh em phái tôi đến với anh em,’ và họ hỏi con, ‘Tên Ngài là gì?’ thì con sẽ nói với họ thế nào? Thiên Chúa phán với ông Moses, ‘Ta là Đấng Hằng Hữu.’ Và Thiên Chúa phán, ‘Ngươi hãy nói với dân Israel rằng: Đấng Hằng Hữu đã phái tôi đến với anh em” (Xh 3:12-14).

Theo truyền thống của Israel, danh xưng diễn tả bản thể. Như thế Thiên Chúa của đức tin chúng ta, (Đấng) là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Jacob, đã mạc khải tên của Ngài: “Ta là Đấng Hằng Hữu.”

Sách Thánh còn gọi tên Ngài là: “Chúa (Tể)” (Kn 1:1), “Tình Yêu” (1 Jn 4:16), “Đấng Hay Thương Xót” (Tv 86:15), “Đấng Trung Tín” (1 Cor 1:9), “Đấng Thánh” (Is 6:3). Nhưng tên mà ông Moses nghe từ giữa bụi gai rực lửa vọng ra có thể là nguyên gốc cho các danh xưng khác. Đấng Hằng Hữu cho biết chính bản thể Thiên Chúa là Đấng tự hữu mà các thần học gia và triết gia thường tuyên xưng. Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta không thể làm gì khác hơn là phải cúi mình thờ lạy Ngài.

  Buổi gặp chung ngày 31 tháng Bảy, 1985