30 Chương 30
Phần 4
THIÊN CHÚA BA NGÔi CỰC THÁNH
Chương 30.
Thiên Chúa Là Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh:
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh
Giáo Hội tuyên tín vào Thiên Chúa duy nhất, đồng thời cũng là Thiên Chúa Cực Thánh, khôn tả và Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Giáo Hội sống trong chân lý này bao gồm trong những biểu trưng xa xưa nhất của đức tin. Trong thời đại chúng ta, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 1900 cuộc tử đạo của Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô (1968), Đức Phaolô VI trình bày “biểu trưng đức tin” và đã được nhìn nhận cách phổ quát là “Lời Tuyên Tín của Dân Thiên Chúa (Credo of the People of God)”.
Vì chỉ một mình “Ngài là Đấng đã muốn làm cho chúng ta nhận biết Ngài, là ‘Đấng ngự trong ánh sáng siêu phàm’ (1 Tim 6:16), là Đấng vượt trên hết mọi danh hiệu, mọi sự và mọi thụ tạo có lý trí ... Chỉ một mình Ngài có thể cho chúng ta sự nhận thức chính đáng và đầy đủ về thực thể mà Ngài tự khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta được kêu gọi chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài trong ánh sáng lờ mờ của đức tin khi còn ở trần thế này và sau khi quá vãng thì trong vinh quang vĩnh cửu ...” (L’Observatore Romano, English edition, July 11, 1968, p. 4).
Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta không thể hiểu thấu. Ngài muốn tự khải không những chỉ là Đấng duy nhất tạo thành và là Cha Toàn Năng, mà cũng là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Linh. Mạc khải này cho thấy căn nguyên chân lý về Thiên Chúa, Đấng là tình yêu: Thiên Chúa là tình yêu tự quy trong bản tính thần linh duy nhất. Tình yêu này là hiệp thông bất khả diễn đạt của các Ngôi Thiên Chúa.
Sự huyền nhiệm này, sâu thẳm vô cùng và sự sống thân mật của chính Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta biết: “Ngài là Đấng ở trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết (về Thiên Chúa)” (Jn 1:18). Sau khi phục sinh và kết thúc sứ mệnh trần thế, Chúa Kitô nói những lời cuối cùng với các tông đồ: “..., anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Hãy làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19). Những lời kể trên khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội và định hướng nhiệm vụ căn bản xây dựng nền tảng của Giáo Hội. Nhiệm vụ thứ nhất của Giáo Hội là giảng dạy và làm Phép Rửa – làm Phép Rửa nghĩa là “nhấn chìm xuống (dìm xuống)” (vì thế cử hành Phép Rửa bằng nước) – ngõ hầu tất cả mọi người đều có thể chia sẻ sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước
Trên đây chúng ta vừa mới nhắc lại những lưu mệnh (lời sau hết) của Chúa Kitô trước khi về trời (xđ Mt 28:19), Ngài mô tả tất cả mọi điều Ngài đã dạy trước kia về Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Ngay từ khởi đầu Ngài đã loan báo chân lý về Thiên Chúa duy nhất, hợp với truyền thống Israel. Khi trả lời câu hỏi: “Giới răn nào (là giới răn) quan trọng nhất?”, Chúa Giêsu công bố: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, giới răn quan trọng nhất là: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất” (Mc 12:29). Tuy nhiên Chúa Giêsu liên tiếp gọi Thiên Chúa là “Cha của Ngài” bằng câu nói đời đời: “Tôi và Cha là một” (Jn 10:30). Cũng phương pháp đó Chúa Giêsu đã mạc khải về Chúa Thánh Linh. “Thánh Linh chân lý Đấng từ Chúa Cha mà ra” và là Đấng mà Chúa Giêsu đoan chắc với chúng ta, “Thầy sẽ gửi Ngài từ Chúa Cha đến với anh em” (Jn 15:26).
Những lời về Phép Rửa “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (tc. Mt 28:19), mà Chúa Giêsu đã ký thác cho các tông đồ vào lúc cuối sứ mệnh trần thế của Ngài, có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Những lời này củng cố chân lý về Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, bằng việc đặt chân lý này trên nền tảng đời sống nhiệm tích của Giáo Hội. Đời sống đức tin cho tất cả mọi Kitô hữu khởi đầu trong Phép Rửa, với việc nhận chìm trong mầu nhiệm Thiên Chúa hằng sống. Những thư của các tông đồ đặc biệt là của Thánh Phaolô đã chứng minh điều này. Trong số những công thức trình bày chân lý về Thiên Chúa Ba Ngôi mà các thư này chứa đựng, nổi bật nhất và được dùng nhiều nhất trong phụng vụ là công thức trong Thư II gửi giáo đoàn tại Corinth: “Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Thiên Chúa Cha và tình thông hiệp của Chúa Thánh Linh ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cor 13:14). Chúng ta tìm thấy những công thức khác trong Thư I gửi các tín hữu tại Corinth, trong Thư gửi tín hữu tại Ephesus và cũng ở phần đầu chương thứ nhất Thư I của Thánh Phêrô (1 Pet 1:1-2).
Nói một cách gián tiếp toàn thể việc phát triển đời sống cầu nguyện của Giáo Hội đã bắt nguồn từ ý thức và định hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi: trong Chúa Thánh Linh, nhờ Chúa Kitô, mà đến với Chúa Cha.
Như thế đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi từ khởi đầu đã đi vào truyền thống đời sống Giáo Hội và người Kitô hữu. Kết quả toàn thể phụng vụ từ cội nguồn "đã" và "hiện là" hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi, vì phụng vụ biểu hiện nhiệm cục thần linh (divine economy). Chúng ta phải nhấn mạnh rằng lòng tin vào ơn cứu độ, tức là tin vào công việc cứu độ của Chúa Kitô, đã đóng góp cho việc hiểu biết mầu nhiệm tối cao về Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Mầu nhiệm này minh họa sứ mệnh của Chúa Con và của Chúa Thánh Linh, Đấng nhiệm xuất “từ Chúa Cha” (proceed “from the Father”) trong tình yêu hỗ tương của Chúa Ba Ngôi hằng hữu. Mầu nhiệm này cho thấy “chương trình của Chúa Ba Ngôi” hiện diện trong việc cứu độ và thánh hóa. Thiên Chúa Ba Ngôi được loan báo trước nhất qua cứu độ học (soteriology), tức là qua ý thức về “nhiệm cuộc cứu độ,” mà Chúa Kitô loan báo và thể hiện trong sứ mệnh thiên sai của Ngài. Con đường tri thức về Thiên Chúa Tam Vị “tự tại”, về mầu nhiệm sự sống bề trong của Thiên Chúa, bắt đầu từ kiến thức này.
Theo ý nghĩa này, Tân Ước chứa đựng toàn vẹn mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ công thức này, Thiên Chúa cho biết Ngài là AI đối với chúng ta, và Thiên Chúa là AI trong chính Ngài, tức là nơi sự sống bề trong của Ngài, do mạc khải về chính Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan tuyên bố chân lý “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Jn 4:16) và đó là chủ điểm (keystone) trong Thư I của ngài. Chân lý này mạc khải Thiên Chúa là AI đối với chúng ta và Thiên Chúa là AI trong chính Ngài, (cần giảng giải liên tục cho tới khi trí óc nhân loại có thể hiểu và ngôn ngữ loài người có thể diễn đạt chân lý này). Thiên Chúa là một Thiên Chúa Hiệp Nhất, tức là một Thông Hiệp giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh.
Cựu Ước không mạc khải chân lý Thiên Chúa Ba Ngôi một cách rõ ràng. Cựu Ước giới thiệu chân lý này bằng cách cho thấy Cương Vị làm Cha của Thiên Chúa trong giao ước với dân Ngài, và hiển lộ hành động Khôn Ngoan, Thánh Ngôn (Lời) và Thánh Linh của Ngài trong vũ trụ (tc. Kn 7:22-30; Cn 8:22-30; Tv 33”:4-6; Tv 147:15; Is 55:11; Kn 12:1; Is 11:2; Sir 48:12). Cựu Ước củng cố các nguyên tắc chân lý về Thiên Chúa duy nhất, y cứ làm căn bản của tôn giáo độc thần, trước hết ở Israel rồi sau đó ở ngoài Israel. Như thế chúng ta phải kết luận rằng Tân Ước đã đem lại mạc khải viên mãn về Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Từ khởi đầu, nhờ Phép Rửa và phụng vụ, chân lý về Thiên Chúa Ba Ngôi đã là cội rễ đức tin sống động của cộng đồng Kitô hữu. Trong những thư của các tông đồ mà chúng ta thường gặp và trong việc làm chứng rao giảng tin mừng, các quy luật về đức tin song hành nhịp nhàng với giáo lý và kinh nguyện của Giáo Hội.
Việc hình thành tín điều Thiên Chúa Tam Vị trong bối cảnh bảo vệ chống lại những phái lạc giáo các thế kỷ đầu là một đề tài riêng. Chân lý về một Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm sâu thẳm nhất và cũng khó hiểu nhất của đức tin. Sở dĩ có những giải thích sai lầm, đặc biệt là khi Kitô Giáo tiếp xúc với văn hóa và triết học Hy Lạp. Đây là trường hợp “du nhập” mầu nhiệm Thiên Chúa Nhất Tam “vào hệ thống ngôn ngữ nhân loại” một cách chính xác. Nghĩa là ngôn ngữ ấy phải được diễn tả trong một hình thái chính đáng theo ngôn ngữ triết học thời đại và những quan niệm mạch lạc về nhất vị - tam ngôi mà Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta.
Sự kiện lịch sử trọng đại này xảy ra trong hai đại công đồng hoàn vũ Nicaea (325) và Constantinople (381). Huấn quyền đúc kết thành quả của các công đồng này trong Kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan. Từ những thời đó Giáo Hội đã diễn tả trong Kinh Tin Kính này đức tin của mình vào Thiên Chúa Tam Vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Nhắc lại công trình của các công đồng này chúng ta không thể quên được một số nhà thần học lỗi lạc, đặc biệt nhất là các Giáo Phụ. Trong thời gian trước công đồng Nicaea chúng ta có thể kể ra Tertullian, Cyprian, Origen, Irenaeus; trong thời gian công đồng Nicaea là Athanasius và Ephraim ở Syria; thời kỳ trước Công Đồng Constantinople chúng ta nhắc lại Thánh Basil Cả, Gregory Nazianzen và Gregory thuộc Nyssa, Hilary, Ambrose, Augustine và Leo Cả.
Từ thế kỷ thứ năm, chúng ta có lời tuyên tín gọi là Biểu Tượng Đức Tin theo Thánh Athanasius, kinh này bắt đầu bằng từ ngữ Quicumque (Chúa Thánh Linh bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra). Lời tuyên tín này giống như một sự bình giải về Kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan.
Trong Lời Tuyên Tín của Dân Thiên Chúa, Đức Phaolô VI đã minh xác điều Giáo Hội sơ khai tin khi tuyên xưng: “Những ràng buộc qua lại đời đời hợp thành ba Ngôi (Thiên Chúa) mà mỗi Ngôi riêng biệt và cũng là Thiên Chúa Hằng Hữu, là sự sống sâu thẳm nhất của Thiên Chúa thánh vô cùng, Đấng Chí Thánh vượt trên tất cả mọi điều mà nhân loại có thể quan niệm được một cách mạch lạc” (xđ. DS 804) (L’Observatore Romano, English edition, July 11, 1968, p. 4) - quả thật, là Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, một Thiên Chúa duy nhất bất khả diễn đạt.
Buổi gặp chung ngày 9 tháng Mười, 1985