Nhảy đến nội dung

25 Chương 25

  • T4, 22/01/2025 - 18:31
  • admin1

Chương 25.

Thiên Chúa Hằng Sống Đã Mạc Khải Chính

Ngài Là Đấng Vô Thủy Vô Chung

   

Giáo Hội hằng tuyên xưng đức tin biểu lộ trong những lời tuyên tín lâu đời nhất: “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất.” Những lời tuyên tín phản ánh cách chính xác và tổng hợp bằng chứng về Thiên Chúa chúng ta tin, Thiên Chúa hằng sống và chân thực của mạc khải, đã nói về chính Ngài: “qua các ngôn sứ,” và tối hậu “bởi Chúa Con” (Dt 1:1-2). Giáo Hội đón nhận những nhu cầu thay đổi của mọi thời đại và tìm hiểu chân lý về Thiên Chúa, như nhiều Công Đồng khác nhau làm chứng. Chúng ta nhắc đến Công Đồng Vatican I, giáo huấn của Công Đồng này dành riêng cho nhu cầu chống lại những sai lầm của phiếm thần thuyết [phiếm thần giáo] và những người theo chủ nghĩa duy vật đã khởi đầu xuất hiện mãnh liệt vào thế kỷ mười chín.

Công Đồng Vatican I dạy: “Hội Thánh tin và tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa hằng sống và chân thật, Đấng tạo thành và là Chúa trời đất, toàn năng, hằng hữu, vô biên, bất khả thấu đạt, thượng trí khôn ngoan vô cùng trong thánh ý và mọi điều trọn lành. Thiên Chúa là bản thể thần linh chí thánh duy nhất, tuyệt đối thanh tịnh và bất khả biến đổi. Từ bản thể của Ngài, Thiên Chúa phải được nhìn nhận Ngài thực sự khác biệt hẳn với thế giới, và tối cao khôn tả trên mọi loài ở ngoài Ngài hoặc mọi thứ có thể quan niệm được” (Hiến chế Dei Filius, can, 1-4, DS 3001).

Điều có thể nhận thấy là văn bản Công Đồng khởi đầu cũng từ những tín quy (biểu tượng đức tin) từ thời xa xưa mà ngày nay chúng ta cùng tuyên xưng: “Tôi tin kính Thiên Chúa ... toàn năng ... Đấng tạo thành trời đất.” Nhưng lời tuyên tín khai triển công thức căn bản này theo tín lý chứa đựng trong Sách Thánh, Truyền Thống và Huấn Quyền của Giáo Hội. Công Đồng Vatican I liệt kê “những ưu phẩm thần tính” của Thiên Chúa theo một hình thức đầy đủ hơn so với những biểu trưng tín điều tuyên xưng cổ xưa.

Về “các ưu phẩm thần tính” kể trên chúng ta muốn nói đến những ưu việt của Thiên Chúa “Đấng Hằng Hữu” biểu lộ qua mạc khải cũng như do công cuộc nghiên cứu chính đáng nhất của triết học (tc. Summa Theol., I, qq. 3ff). Sách Thánh trình bày về Thiên Chúa bằng cách dùng những tĩnh tự khác nhau, một thứ ngôn ngữ loài người quá hạn hẹp, không thể diễn tả nổi thực tại hoàn toàn siêu việt chính là Thiên Chúa.

Đoạn trích từ Công Đồng Vatican I trên đây xác nhận tính bất khả của việc trình bày đầy đủ về Thiên Chúa. Ngài là Đấng không thể nào hiểu thấu và không thể nào mô tả hết được. Đức tin và giáo huấn của Giáo Hội về Thiên Chúa vẫn duy trì “tính bất khả thấu đạt” và “bất khả diễn đạt” này. Tuy nhiên Giáo Hội không bằng lòng về sự nhìn nhận thụ động các loại thần học tiêu cực (huyền bí, vô ngôn) trái với đức tin và giáo huấn của Giáo Hội. Quan điểm này cho rằng ngôn ngữ loài người, và cả ngành thần học cũng chỉ có thể hoặc hầu như chỉ có thể diễn tả điều không phải là chính Thiên Chúa (Thiên Chúa không là điều đó), vì ngôn ngữ loài người không có đủ ngôn từ để giải thích Thiên Chúa là gì.

Như thế trong những lời tuyên ngôn về Thiên Chúa, Công Đồng Vatican I không thu hẹp mình một “cách tiêu cực,” mà nhấn mạnh đến “khía cạnh tích cực.” Chẳng hạn như Công Đồng dạy rằng Thiên Chúa là Đấng tự bản chất khác biệt với thế giới (a mundo disctinctus re et essentia) và là Thiên Chúa đời đời hằng hữu. Sách Thánh mô tả chân lý này trong nhiều đoạn và nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn như, trong Sách Sirach (Huấn Ca), chúng ta đọc: “Ngài là Đấng hằng sống đã tạo dựng toàn thể vũ trụ” (Sir 18:1), và trong Sách Ngôn Sứ Daniel: “Ngài là Thiên Chúa hằng sống, tồn tại muôn đời” (Dan 6:27).

Thư gửi tín hữu Do Thái cũng vang lên tương tự những lời Thánh vịnh 102: “Từ thuở xưa Chúa đã đặt nền móng địa cầu, và các tầng trời là kỳ công của tay Ngài. Những thứ đó sẽ tiêu tan, nhưng Ngài vẫn trường tồn; chúng sẽ rách mòn tựa như manh áo. Ngài thay đổi chúng khác nào xiêm y, và chúng biến mất; nhưng Ngài vẫn y nguyên, và thời gian (tháng năm) của Ngài vô tận” (Tv 102:25-27). Một vài thế kỷ sau, tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái cũng dùng những lời Thánh vịnh trên đây: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng địa cầu từ thuở ban đầu, và các tầng trời là kỳ công của tay Chúa; chúng sẽ tiêu tan, nhưng Chúa vẫn còn hoài; chúng sẽ cũ mòn tựa manh áo, tựa như tấm áo choàng Chúa sẽ cuộn lại, và chúng sẽ bị thay như người ta thay áo; nhưng Chúa vẫn trước sau y nguyên, và thời gian (năm tháng) của Chúa sẽ không bao giờ chấm dứt” (Dt 1:1-12).

Những đoạn Sách Thánh dẫn thượng cho chúng ta biết  vấn đề vĩnh cửu chính là yếu tố căn để phân biệt Thiên Chúa với vũ trụ. Trong khi vũ trụ phải chịu thay đổi và mất đi, Thiên Chúa vẫn tồn tại vượt qua việc vũ trụ biến mất. Ngài tồn tại đời đời và tất yếu không bao giờ thay đổi: “Chúa vẫn y nguyên ...”

Do ý thức tin tưởng vào Thiên Chúa hằng hữu nên Thánh Phaolô viết: “Kính dâng Đức Vua muôn thuở, hằng hữu, vô hình, Thiên Chúa duy nhất, mọi vinh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (1 Tim 1:17). Sách Khải Huyền cũng diễn tả chân lý này: Chúa là Thiên Chúa phán: “Ta là Alpha (Khởi Đầu) và là Omega (Cứu Cánh,) là Đấng hiện có, đã có, và sẽ đến, là Đấng Toàn Năng’” (Kh 1:8).

Những dữ kiện mạc khải trên đây cũng diễn tả lòng xác tín mà người ta đạt tới khi nhìn nhận rằng Thiên Chúa là Đấng hằng hữu, vì thế là tất yếu và vĩnh cửu. Thiên Chúa vô thủy vô chung. Lý luận chính đáng và mạc khải hòa nhập cách tuyệt vời ở điểm này. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn sung mãn (ipsum Esse subsistens) nên sự vĩnh cửu của Ngài “ghi khắc trong thuật từ học về hằng hữu” phải được hiểu là “bất khả phân ly, toàn thiện, và đồng thời sở hữu sự sống bất tận,” vì thế là ưu phẩm thần tính vĩnh cửu, tuyệt đối “phi thời gian.”

Tính vĩnh cửu của Thiên Chúa không đi theo thời gian của thế giới thụ tạo. “Tính đời đời hằng hữu của Thiên Chúa không trùng với hiện tại.” Tính vĩnh cửu của Thiên Chúa không đi trước thời gian hoặc “kéo dài” thời gian đi vào vô tận. Tính vĩnh cửu ấy vượt ra ngoài và bên trên “sự hữu.” Đối với toàn thể huyền nhiệm của Thiên Chúa, tính vĩnh cửu nói một cách nào đó không còn thời gian và không gian, nhưng vạn vật “thuộc thời gian” đều lệ thuộc thời gian, lệ thuộc sự thay đổi và tính bất tất. Hồi tưởng lại những lời Thánh Phaolô nói tại Areopagus ở Athens: “Trong (ở nơi chính) Ngài ... chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17:28). Do cách diễn tả ẩn dụ (tỉ dung), chúng ta nói “từ bên ngoài” để xác nhận tính siêu việt của Thiên Chúa trên mọi thụ tạo, và sự đời đời vượt trên thời gian. Chúng ta ý thức và tái xác nhận Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu, Ngài là nguyên lý sự hiện hữu cho mọi thụ tạo, và vì thế cũng trao ban sự hiện hữu cho thời gian mà thời gian qua đi như là sự nối tiếp liên tục của những phút giây (thời lượng vắn vỏi), mà không thứ nào ngoài sự quan phòng đời đời của Ngài.

Chứng từ của Công Đồng Vatican I diễn tả đức tin của Giáo Hội vào Thiên Chúa hằng sống, chân thực và đời đời. Ngài hằng hữu đời đời vì Ngài là Đấng tuyệt đối sung mãn (mà sự sung mãn này) không thể nào hiểu như là một tổng thể những “phân tử” của sự vật (mà những thứ đó) thay đổi theo thời gian. Những lời trích từ Phúc Âm cho thấy rõ điều này. Tính cách sung mãn tuyệt đối của hiện hữu chỉ có thể được hiểu là sự vĩnh cửu, nghĩa là, sở hữu toàn thể và bất phân chia của thực thể đó, tức là, sự sống chính Thiên Chúa. Trong ý nghĩa trên, Thiên Chúa đời đời hằng hữu: (là) một “Bây Giờ,” một “Hiện Tại,” hằng tồn tại và bất biến. Cách thái hiện hữu của Thiên Chúa khác hẳn từ căn cốt với thể thức của các thụ tạo, mà chúng là những hữu thể “bất nhất.”

Vì thế Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã mạc khải chính Ngài, là Thiên Chúa đời đời hằng hữu. Chúng ta phải cùng nhau tuyên xưng: Thiên Chúa là Đấng đời đời hằng hữu. Tính cách đơn thuần toàn hảo của Đấng Hằng Hữu thần linh (omnino simplex) đòi hỏi phải mô tả như thế.

Khi chúng ta nói bằng ngôn ngữ loài người về “Thiên Chúa đời đời hằng hữu” là chúng ta nói đến siêu việt tính của Đấng Thần Linh. Vì không một đặc tính nào của Thiên Chúa tách biệt cách rõ rệt khỏi chính bản thể Thiên Chúa (trong khi những đặc tính của nhân loại tách biệt với con người sở hữu những đặc tính đó), cho nên khi nói: “Thiên Chúa đời đời hằng hữu” chúng ta muốn minh xác: “Thiên Chúa là vĩnh cửu.”

Đối với chúng ta, những thụ tạo lệ thuộc không gian và thời gian, không thể hiểu được sự vĩnh cửu này, cũng không thể hiểu bản thể Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự kiện này giúp chúng ta thấy tính cách cao cả và uy nghi vô cùng của Thiên Chúa. Chúng ta vui mừng tràn trề với ý nghĩ về Đấng Toàn Năng Hằng Hữu (Ngài) bao gồm tất cả mọi thụ tạo và lệ thuộc, cũng gồm cả con người bé nhỏ chúng ta, những hành động của chúng ta, trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta.

“Chúng ta sống, cử động và tồn tại trong Ngài.”

 Buổi gặp chung ngày 4 tháng Chín, 1985